Giới trẻ thời bây giờ (người sinh và trưởng thành sau ngày 30-4-1975) ở Sài Gòn chỉ biết Hồ Con Rùa là 1 bùng binh (vòng xoay giao thông) có đài phun nước, nối 3 con đường Võ Văn Tần, Trần Cao Vân và Phạm Ngọc Thạch (thuộc quận 1) và là một trong các khu vực náo nhiệt (vì các hoạt động ẩm thực với các tiệm cà phê, hàng quán chung quanh. Hồ Con Rùa trong quá khứ từng có tên là Đài Phun Nước, Công Trường Ba Hình, Công Trường Chiến Sĩ Trận Vong, Công Trường Quốc Tế, Công Trường Duy Tân… và nếu muốn kể đầy đủ thì Phạm Thắng Vũ (PTV) quay trở về thời khởi điểm của các vị trí Hồ Con Rùa bây giờ từ thời xa xưa (1790) nguyên là vị trí cổng thành tên là Khảm Khuyết (của Quy Thành (Bát Quái Thành). Sau cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi (dưỡng tử của quan Tổng trấn Gia Định Thành-Lê Văn Duyệt) thì vua Minh Mạng cho phá bỏ Quy Thành này (1837) và xây một thành mới thay thế nhưng quy mô nhỏ hơn (gọi là Phụng Thành). Do đó cổng thành Khảm Khuyết lại ở ngoài cái Phụng Thành (mới) này và tự nhiên trở thành con đường chạy thằng xuống sông (Bạch Đằng bây giờ). Phụng Thành cũng không bền vì sau khi người Pháp chiếm được thì họ lại phá hủy tan tành (ngày 8 tháng 3 năm 1859). Người Pháp (sau khi chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ) thì bắt đầu quy hoạch để xây khu đô thị mới (tiền thân của Sài Gòn) bằng cách dựa trên các trục lộ của (Quy Thành cùng các vị trí cũ) và một tháp nước được xây ngay (năm 1878) tại vị trí Hồ Con Rùa dùng để cung cấp nước sinh hoạt cho cư dân trong vùng. Cái tháp nước này cũng nhỏ, do vậy khi lượng dân cư tăng lên thì người Pháp dựng các tháp nước khác thay thế (do tháp nước cũ không cung ứng đủ và bị phá bỏ vào năm 1921). Vị trí phá bỏ này, người Pháp đã cho xây dựng một tượng đài ba binh sĩ Pháp bằng đồng với hồ nước nhỏ, để đánh dấu cuộc xâm chiếm và biểu tượng của việc người Pháp làm chủ Đông Dương và vì vậy, dân trong vùng thường gọi nó là Công Trường Ba Hình.
Tượng đài (Ba Hình) này, người Pháp xây để tưởng nhớ đến các binh sĩ Pháp (bỏ mình trong trận Đệ Nhất Thế Chiến tận bên trời Âu) và hằng năm cứ đến ngày 14 tháng 7 (Quốc Khánh Pháp) thì quan chức Pháp (chính quyền thuộc địa) kéo về đây để làm lễ tưởng niệm chiến sĩ trận vong. Tượng các người lính chiến ở đài (Ba Hình ) này không có tên (vô danh), hình dáng mặc quần áo trận, mũ sắt, tay cầm khẩu súng Mút (dưới chân tượng là bệ đá hoa cương có khắc hàng chữ Le Soldat Inconnu) và nơi này (tượng đài Ba Hình) còn có tên gọi là Công Trường Chiến Sĩ. Gọi tên là Ba Hình vì có 1 tượng trên đỉnh và 2 tượng ở dưới chân.
Khi cầm quyền (tư cách là Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia của miền Nam VNCH), Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã cho phá hủy tượng đài Ba Hình này (quãng tháng 6 năm 1965) và thay thế bằng hồ nước (hình ảnh hiện như bây giờ). Có tin là ông (tổng thống Nguyễn Văn Thiệu) tin vào lời của một thầy địa lý xây Hồ Con Rùa để làm một trấn yểm. Trên mặt hồ là từng dãy lối đi được xây cách điệu hình hoa sen đang nở. Giữa hồ là 5 trụ bê tông sừng sững vươn lên cao, tượng trưng cho năm cánh tay của cộng đồng quốc tế công nhận miền Nam VNCH. Dưới chân trụ này là một đài tưởng niệm hình bầu dục, trên có một đỉnh đồng (đồng đỏ) chỉ được đốt hương trầm vào ngày Lễ Chiến Sĩ Trận Vong của miền Nam VNCH.
Hình tượng chính của việc trấn yểm là một hình tròn đường kính khoảng gần 2m xây đối diện 5 trụ bê tông nói trên. Trên hình tròn này là một tấm bia khoảng 5m, cẩn đá cẩm thạch trắng. Đỉnh bia có một phù điêu bằng đồng thau khắc nổi hình một bầu rượu (không hiểu nghĩa gì), dưới phù điêu ấy là tên các quốc gia (hình như là 44 quốc gia trong khối tự do và trung lập) đã công nhận miền Nam VNCH và có viện trợ kinh tế cũng như tinh thần (cho miền Nam VNCH khi đó), được khắc chìm vào mặt đá và mạ vàng. Ngay dưới chân bia là một con Rùa (Quy) tạo hình bằng những phiến đồng đỏ kích thước khoảng 40×40 cm/tấm, được ghép lại với nhau theo lối tán rivet (cũng bằng đồng). Nhìn sơ qua, hình dáng con Rùa đội tấm bia này cũng giống như các con rùa đá đội bia khắc tên các ông Nghè ở Văn Miếu ngoài Hà Nội.
Cái gì hiện hữu đều có lý do hiện hữu. Vụ nổ mìn làm tan hình Con Rùa (cùng tấm bia trên lưng) ở Hồ Con Rùa cũng có lý do của nó. Chúng ta phải quay trở lại thời điểm bắt đầu sau ngày 30-4-1975. Khi đó, cùng với đoàn quân mới (Việt Cộng) chiếm đóng thì một tâm trạng bất an của dân đọc sách và các nhà sách mà tự dưng sách vở bày bán tràn lan lề đường. Rẻ, nhiều, mua bán chớp nhoáng không cò kè như trước. Có chỗ còn rao kiểu bán đổ đồng, đồng giá… nhanh tay thì còn-chậm tay thì hết. Cũng có những người còn nặng lòng với văn hóa miền Nam VNCH (khi đó) nên khi thấy sách báo, tạp chí bày bán quá nhiều và rẻ (đặc biệt có cả những bộ Văn, Bách Khoa… đóng bộ-bìa da hẳn hoi) thì họ vội mua về đem cất. Khách mua chợt tăng lên vì đã có những người thuộc chế độ mới tìm mua (trong số họ có cả Dương Thu Hương nữa khi nữ văn sĩ này vừa vào được Sài Gòn) để đọc (những cái, những điều lạ trong các sách lạ mà họ lần đầu tiên được thấy). Các hiệu cho mướn sách cũ vẫn lén lút cho thuê sách (để họ tiếp tục sống) và bây giờ thì họ lại có thêm một số khách hàng mới là các bộ đội đóng quân đâu đó (trong các doanh trại lính chế độ cũ) trong vùng. Những truyện từ Chưởng, Kiếm Hiệp, Trinh Thám, Truyện Dịch, Chính Trị, Tình Dục… của miền Nam VNCH được họ đọc rồi mê mẩn và tìm đọc tiếp rồi ra chợ trời tìm mua nguyên cả quyển để mang về quê cất (khi họ phục viên về quê, rời khỏi quân ngũ). Cùng lúc đó thì từ miền Bắc CS lại cho chở cả hàng đống (trên từng các chuyến xe tải) sách báo xuất bản ở ngoài đó (thu thập từ trong nhà dân chúng trong các phong trào quyên góp gửi sách cho đồng bào miền Nam ruột thịt) nói là để cho dân vùng bị địch (chế độ miền Nam VNCH) tạm chiếm trước đây có món ăn tinh thần để biết về văn hóa miền Bắc và Xã Hội Chủ Nghĩa.
Nhưng sách báo của miền Bắc chở vào các đô thị cũ của miền Nam VNCH thì lại không được đồng bào (nhất là ở Sài Gòn) đón nhận như ý các cán bộ văn hóa đã nghĩ. Kể cả các sách báo mới vừa được in ra (tái bản vội vã từ các bản gốc ở ngoài Bắc mang vào), phát hành từ các nhà in do họ vừa mới tiếp thu được. Người ta vẫn cứ tìm đọc các sách báo cũ và vì vậy đã có các vụ tịch thu sách báo miền Nam VNCH (được cán bộ văn hóa gom chung một giỏ là đồi trụy) để đem thiêu hủy (đốt, xé hoặc cá biệt do cán bộ văn hóa đem cất riêng, nói là để nghiên cứu). Làm thế, nhưng văn hóa miền Nam VNCH đã truyền về miền Bắc rồi (do các anh bộ đội, người vào trong Nam ngay sau ngày 30-4-1975 mang về). Tiểu thuyết, truyện Chưởng, Kiếm Hiệp, Trinh Thám, truyện dịch, tạp chí… của miền Nam VNCH đã đánh bại sách báo miền Bắc (PTV không kể các tác phẩm xuất bản tại miền Bắc trước thời điểm 1954 như của Tự Lực Văn Đoàn cùng các ấn phẩm, tạp chí khác…) và ở ngoài đó người ta đọc, kể cho nhau nghe rồi cứ vậy mà nó lấn át, đánh bại các sách báo của nền văn học nghệ thuật khô cằn, nói một chiều. Dù chỉ có ít tháng kể sau ngày 30-4-1975, thơ ca của văn hóa miền Nam VNCH làm người dân miền Bắc quên mất cả những chân dung như Tố Hữu, HCM… Văn thì làm người đọc thấy hơn hẳn các khuôn mặt cũ như Chu Văn, Anh Đức, Nguyên Ngọc, Hữu Mai… Và vì vậy cán bộ văn hóa phải vào cuộc. Tháng 9- 1975, chính quyền ra thông cáo cấm phổ biến, lưu hành, tàng trữ toàn bộ tác phẩm của ngót 50 văn, thi sĩ, nhà nghiên cứu… của chế độ cũ (miền Nam VNCH). Thông cáo này được đọc ở trường học, các cơ quan nhà nước (Phường, Khóm, Ấp), trên vô tuyến TH, Radio truyền thanh… Các nhà văn, nhà báo, thi sĩ chế độ cũ (miền Nam VNCVH) tự dưng trở thành tay sai của USA hết (nhân viên CIA). Có thông báo đó, có các vụ bêu riếu các cá nhân văn, thi sĩ miền Nam VNCH thì vô tình càng làm sách báo chế độ cũ có cái gì hấp dẫn đối với dân chế độ mới. Nên, một vụ bắt các văn, thi sĩ miền Nam VNCH cần phải có để dập tắt hoàn toàn nền văn hóa của chế độ này (dù khi đó chế độ đó đã chấm hết).
Buổi tối (quãng 7 hay 8 giờ) ngày 1 tháng 4 năm 1976, phát một tiếng nổ ầm ngay tại con Rùa đồng (hình con rùa này, có người cho là làm bằng đồng đen nhưng người khác bảo là đồng đỏ và mầu đen là do đồng bị oxy hóa khi tiếp xúc với không khí lâu ngày) dưới chân bia kỷ niệm các nước (hình như là 44 nước) đồng minh, viện trợ cho miền Nam VNCH ở công trường Duy Tân (tên mới) trước học viện ĐH Sài Gòn. Tiếng nổ khá lớn và ngay ngày hôm sau thì báo Tin Sáng đã tường thuật đầy đủ chi tiết vụ nổ này (họ gọi là phá hoại) và cho biết thủ phạm đã bị bắt nhưng không đăng hình người đó mà chỉ đăng hình người chết (để gây xúc động trong quần chúng). Ngay ngày hôm đó (sau 12 giờ đồng hồ khi có vụ nổ xẩy ra) một số các nhà văn, thi sĩ, trí thức lần lượt bị bắt (chiến dịch này kéo dài từ ngày 2 tháng 4 đến ngày 8 tháng 4 thì tạm ngưng) để sau đó công an bắt tiếp một số người phát hành sách báo (ngày 28 tháng 4). Khi đó không ai (các người bị bắt) biết được về cái kế hoạch bắt giữ này vì kể từ sau ngày 30-4-1975 thì các văn, thi sĩ, trí thức miền Nam VNCH vẫn linh cảm sẽ có ngày họ bị bắt nên tâm trạng họ gần như là chờ đợi cái ngày xui xẻo đến với mình (trừ nhà văn Mai Thảo thì sống cuộc đời nay đây mai đó, không ở một chỗ nhất định cho đến ngày ông vượt biên thành công). Cho đến tận năm 1982 (6 năm sau vụ nổ Hồ Con Rùa) thì độc giả mới biết đến kế hoạch (lý do) bắt này qua quyển truyện tên là Vụ Án Hồ Con Rùa (do NXB Tuổi Trẻ-Thành phố HCM xuất bản) do tác giả tên là Huỳnh Bá Thành viết ra.
Huỳnh Bá Thành (HBT) dân gốc miền Trung, vẽ hí họa (với bút hiệu là Ớt) cho tờ nhật báo Điện Tín (của Thượng nghị sĩ Quốc Hội VNCH Hồng Sơn Đông) có ai ngờ lại là tay Việt Cộng nằm vùng (cũng giống trường hợp của Vũ Hạnh (tác giả của Người Việt Cao Quý, Cô Gái Xà Niêng, Tiếng Hú Trên Đỉnh Non Chà Hóc…), Thái Bạch (tác giả của Thi Văn Quốc Cấm Thời Pháp Thuộc) và bản thân HBT cũng không lạ các khuôn mặt văn, thi sĩ miền Nam VNCH. Vậy mà y có thể viết một quyển sách về họ theo kiểu như vậy. Việt Cộng vẫn luôn rêu rao là chúng luôn luôn quý trọng con người và tài năng con người. Việt Cộng không bao giờ bắt các nhà văn, thi sĩ vì các tài năng mà họ bị công an bắt là vì đây là bọn gài mìn sát hại lương dân và phá hoại kiến trúc công cộng. Trong quyển Vụ Án Hồ Con Rùa (VAHCR), Huỳnh Bá Thành khẳng định các văn, thi sĩ miền Nam VNCH bị bắt như: Đỗ Gia (Đằng Giao), Chu Nữ (Chu Vị Thủy), vợ chồng Lê Dạ-Thu Dung (Trần Dạ Từ-Nhã Ca), Nguyễn Côn (Nguyễn Mạnh Côn), Vũ Long (Duyên Anh-Vũ Mộng Long), Hoàng Hà Đặng (Đặng Hoàng Hà)… đều là tay sai USA, nhân viên CIA gài nằm lại (không di tản dịp 30-4-1975). Cho các văn, thi sĩ này thảo luận chiến lược với các cố vấn Mỹ (trước 30-4-1975), nhận mìn và làm cái vụ nổ Hồ Con Rùa. Danh sách các văn, thi sĩ, nghệ sĩ… miền Nam VNCH bị bắt trong đợt này rất nhiều. PTV xin kể tên ra sau đây: Dương Nghiễm Mậu, Doãn Quốc Sĩ, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Lê Xuyên, Nguyễn Mạnh Côn, Thế Viên, Thái Thủy, Mặc Thu, Vũ Hoàng Chương, Duyên Anh, Đằng Giao (con rể nhà văn Chu Tử), Chu Vị Thủy (con gái nhà văn Chu Tử), Hồng Dương, Thanh Thương Hoàng, Văn Kha, Hồ Nam, Như Phong, Trịnh Viết Thành, Anh Quân, Xuyên Sơn, Cao Sơn, Đặng Hải Sơn, Đặng Hoàng Hà, Lê Văn-Vũ Bắc Tiến, Sao Biển, Hồ Văn Đồng, Lê Hiền, Sơn Điền-Nguyễn Viết Khánh, Tô Ngọc, Uyên Thao,Lý Đại Nguyên, Tô Kiều Phương, Hoàng Vĩnh Lộc, Hoàng Anh Tuấn, Thân Trọng Kỳ, Minh Đăng Khánh, Nguyễn Hải Chí (họa sĩ Chóe), Nguyễn Hữu Hiệu…
Trở lại câu chuyện Vụ Án Hồ Con Rùa thì trong truyện này (độc giả trong nước nếu chịu khó đi lục tìm ở các hiệu bán sách cũ thì cũng có thể tìm lại được), HBT đã dựng lên một câu chuyện là khi vào ngồi trong Dinh Độc Lập rồi (Dinh này nguyên là dinh Norodom rồi đổi thành tên là dinh Thống Đốc (vì là nơi làm việc của Thống Đốc Nam Kỳ), rồi lại thành dinh Toàn Quyền (cho viên Toàn Quyền Pháp (cai trị cả 3 nước Việt-Miên-Lào)). Khi Nhật lật Pháp (biến cố ngày 9 tháng 3 năm 1945) thì Nhật làm chủ cái dinh này và khi Nhật thất trận, Pháp quay lại Việt Nam và làm chủ trở lại dinh cho đến khi Pháp bàn giao lại cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm (ngày 7 tháng 9 năm 1954) và ông Diệm cải tên là dinh Độc Lập. Sau vụ thả bom của 2 phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử (ngày 27 tháng 2 năm 1962) thì do dinh bị hư hại nặng nên Tổng thống Ngô Đình Diệm đã quyết định xây dinh mới (san bằng dinh cũ) theo đồ án của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ (ông này cũng vẽ đồ án của bệnh viện Vì Dân (tên là Thống Nhất hiện thời)) nhưng ông Diệm lại chưa lần nào được đặt chân lên thềm cái dinh mới này (do vụ đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 xẩy ra). Dinh Độc Lập được khánh thành vào ngày 31 tháng 10 năm 1966 và người chủ tọa buổi lễ không ai khác chính là đương kim Chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu (NVT)) thì cho mời một thầy phong thủy Tàu (năm 1967) vào dinh để xem thế đất. Thầy phong thủy cho rằng vị trí của dinh Độc Lập thuộc dạng long mạch mà đầu nằm tại dinh, đuôi nằm tại vị trí của Hồ Con Rùa. Ta thấy những con vật có đuôi (như chó, mèo, cọp, cá sấu, ngựa, bò…) thì chúng thường hay vẫy cái đuôi (để đuổi ruồi, biểu lộ cảm xúc của chúng hay cái gì khác nữa thì PTV không biết) và có lẽ vậy mà trong truyện VAHCR, gã Ba Trung (bí danh của HBT) cho là nếu rồng (1 con vật thần thoại cả bên trời Đông lẫn trời Tây) mà vẫy đuôi thì ngôi vị của thế đất (tức sự nghiệp của Tổng thống NVT sẽ không được yên ổn) sẽ đảo. Để tránh các sự việc này (rồng vẫy đuôi) thì Tổng thống NVT nên yểm. Yếm bằng cách dựng 1 con rùa để trấn cho thế đất vững bền (tức ngôi vị của Tổng thống NVT sẽ vững như bàn thạch) và kết quả là có hình con rùa đội bia tại khu vực công trường Duy Tân này.
Trong quyển VAHCR, Ba Trung còn cho các văn, thi sĩ miền Nam VNCH mà ai cũng biết thuộc loại người trói gà không chặt thành các gián điệp-tình báo lão luyện, mưu mô, xảo trá. Các văn, thi sĩ này đều là chuyên viên chất nổ được USA huấn luyện kỹ lưỡng, thành thục. Ba Trung gán tội các văn, thi sĩ miền Nam VNCH đều là tay sai của CIA cài lại (không chịu di tản hoặc di tản không kịp trong thời điểm 30-4-1975), do mê tín dị đoan, do ngu muội và tàn ác nên đã cho đặt mìn phá hoại con Rùa (tức đuôi rồng) để mong chính quyền Cách Mạng (Việt Cộng) vì thế sẽ bị sụp đổ. Nhưng cuối cùng bọn chúng (tức các văn, thi sĩ miền Nam VNCH có trong truyện VAHCR) đều bị các lực lượng an ninh của ta (Việt Cộng) phát hiện và tóm gọn.
Thực ra văn, thi sĩ miền Nam VNCH (kể cả các quân nhân, công-viên chức hành chánh…) đã mắc lừa chính quyền mới khi họ ngoan ngoãn khăn gói quả mướp để đến nơi ghi danh xin học tập cải tạo (theo thông báo học 10 ngày, 1 tháng) để mong học sớm sẽ về sớm (trình diện trong tháng 6 năm 1975) mà yên ổn làm lại cuộc đời mới trong 1 đất nước vừa qua khỏi chiến tranh, không còn bóng kẻ thù (chỉ có bọn USA thua chứ người Việt Nam bên nào cũng thắng, luận điệu của cán bộ CS trong thời điểm đó) và kết quả là tự mình xin được đi tù (với mỹ danh là cải tạo). Những văn, thi sĩ đó là: Thanh Tâm Tuyền, Mai Trung Tĩnh, Dương Hùng Cường, Hà Thượng Nhân, Phan Lạc Phúc, Tô Thùy Yên, Văn Quang,Thảo Trường, Duy Lam, Phan Nhật Nam, Huy Vân, Đặng Trần Huân, Diên Nghị, Phan Lạc Giang Đông,Thục Vũ, Minh Kỳ, Thế Uyên, Vũ Thành An, Dương Kiền, Đinh Tiến Luyện, Nhật Bằng… và trong số người này thì đã có người phải bỏ mạng trong trại tù (Minh Kỳ, Thục Vũ, Nguyễn Mạnh Côn) hoặc được tha để về tới nhà thì chết (Vũ Hoàng Chương, Hồ Hữu Tường, Minh Đăng Khánh, Trần Việt Sơn)… Những văn, thi sĩ không thuộc diện trình diện vì liên quan đến công việc với chế độ cũ (công chức, sĩ quan, trưởng phòng…) như Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Duyên Anh, Đằng Giao, Chu Vị Thủy (được đổi tên khác giông giống trong VAHCR), Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên, Nguyễn Mạnh Côn, Thế Viên, Mặc Thu, Vũ Hoàng Chương… thì cán bộ văn hóa (chính quyền) dùng cái vụ nổ này để danh chính ngôn thuận lùa tất cả họ (văn, thi sĩ miền Nam VNCH còn sót bên ngoài) vào tù.
Cũng có các văn, thi sĩ miền Nam VNCH lại được chính quyền mới (Việt Cộng) để yên (không hề bị bắt) như: Thanh Lãng, Phạm Việt Tuyền, Vũ Bằng, Tam Lang, Trần Lê Nguyễn, Thượng Sĩ, Toan Ánh, Nguyễn Hiến Lê, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác… Tại sao lại có vụ người thì bị chính quyền tìm mọi cách để bắt, người thì họ lại tha (như những người kể trên đây)? Sau này (cả hàng chục năm sau ngày 30-4-1975) thì một số bí ẩn đã được thỏa (có đáp án). Thanh Lãng (tên thật là Đinh Xuân Nguyên), gốc là linh mục đạo Thiên Chúa, từng dạy tại ĐH Văn Khoa (Huế và Sài Gòn) từ năm 1957 đến 1975, tuy từng là Chủ tịch Văn Bút Miền Nam VNCH nhưng có khuynh hướng gần như thiên tả (từng bảo lãnh cho Vũ Hạnh khi nhà văn này bị cảnh sát miền Nam VNCH bắt). Vũ Bằng (tên thật là Vũ Đăng Bằng), từ năm 1948 từng hoạt động trong màng lưới tình báo cách mạng (Việt Minh) và năm 1954 di cư vào Nam (theo lệnh của tổ chức dù phải bỏ lại vợ và con trai tại Hà Nội) hoạt động cho đến ngày 30-4-1975 (tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2, Bộ Quốc phòng CS Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo). Nguyễn Hiến Lê tuy từng nói bản thân không làm chính trị chỉ chú tâm vào trước tác nhưng thái độ thiên cộng trong ông thì ai cũng rõ (từng 2 lần từ chối lời mời của chính quyền miền Nam VNCH để làm giám khảo giải Văn chương toàn quốc) và có lẽ vậy mà Việt Cộng để ông ta yên. Còn các nhà văn khác như: Bình Nguyên Lộc, Toan Ánh, Nguyễn Mộng Giác… Thật không biết lý do.
Ngoài truyện VAHCR đổ cho lý do phá vỡ long mạch (không còn rùa yểm) thì lý do thực của vụ nổ hồ con rùa là gì khi mà các văn, thi sĩ (có tên trong VAHCR, dù đã đổi nhưng vẫn giông giống bút hiệu, tên thật) khi vào trại giam lại bị quản giáo cho biết là chính quyền (Việt Cộng) phải làm một mẻ lưới lớn để tó hết tất cả văn, thi sĩ còn sót bên ngoài xã hội là vì: Chúng tôi sợ các anh, chị (văn, thi sĩ miền Nam VNCVH) phá hoại bầu cử (Quốc Hội của cả nước). Nhà văn Duyên Anh (DA) khi được biết lý do mình bị bắt như vậy (từ miệng gã cán bộ khi tháo còng tay ông) đã tự vấn: Chúng tôi phá bầu hoại bầu cử. Tại sao người ta (Việt Cộng) lại sợ chúng tôi như vậy dù đã phát thẻ cử tri rồi. Phát thẻ cử tri thì có nghĩa họ (Việt Cộng) không tước đoạt quyền công dân của chúng tôi. Chúng tôi được tham gia bầu cử Quốc Hội cả nước mà. Ông DA lại cho biết: Mấy hôm trước, đọc mục xã luận của tuần báo Văn Nghệ Giải Phóng, biết chắc rằng, chúng tôi rất thiếu vinh dự bỏ phiếu (…những tên tướng, những tên đại tá ác ôn, buông súng là chúng hết ngóc đầu dậy, nhưng bọn nhà văn nô dịch phản động, buông bút xuống, ảnh hưởng của chúng vẫn còn nguy hiểm cho nhiều thế hệ. Những tên nhà văn đã phục vụ guồng máy chiến tranh bẩn thỉu của Mỹ Ngụy không được phép tới gần các thùng phiếu của chúng ta). Người ta (Việt Cộng) không thích chúng tôi tới gần các thùng phiếu. Người ta (Việt Cộng) cứ tưởng chúng tôi thèm bỏ phiếu lắm. Tôi đã từ khước quyền công dân của tôi từ lâu! Tôi chưa bao giờ biết bỏ phiếu. Tôi không khoái trò bầu cử gian lận ở nước tôi. Điều tôi cảm thấy hãnh diện thêm về nhà văn của chúng tôi là, cấm bỏ phiếu, Cộng Sản vẫn chưa yên tâm, phải bắt chúng tôi nhốt kỹ, họ mới tin tưởng bầu cử Quốc Hội cả nước thành công. Tuy bắt các văn, thi sĩ miền Nam VNCH rành rành rồi sau đó tống tất cả vào các nhà giam, trại… (Chí Hòa, số 4 Phan Đăng Lưu, Bù Gia Mập, Xuyên Mộc…) nhưng khi tháo còng số 8 (ở tay các văn, thi sĩ), các cán bộ phụ trách đều nói: Thật tiếc khi thấy anh, chị bị còng như vậy. Em, cháu (công an đi bắt) đã làm bậy. Nhà nước chỉ mời các anh, chị đi nghỉ ngơi ít bữa (qua bầu cử) chứ không hề muốn giam cầm các anh, chị. Hiện tượng, hiện tượng… Luôn luôn là hiện tượng. Hiện tượng không bao giờ là bản chất. Chính sách đúng mà thi hành sai. Anh, chị đừng buồn nhé.
Con rùa (hay Quy) đối với văn hóa Việt là một trong tứ Linh (Lân, Ly, Quy, Phụng) và có mặt trong tín ngưỡng như là linh vật (dù thực tế thì không có rồng, lân, phụng). Rùa gắn liền với truyền thuyết nỏ thần của An Dương Vương, nhận lại gươm báu từ tay vua Lê Lợi (trong truyền thuyết về hồ Gươm-Hoàn Kiếm…), rùa đội bia ( tượng đá trong Văn Miếu-Hà Nội), rùa đội hạc (tượng đồng, gỗ, đất… trong các Chùa). Chính vậy mà khi tạo dựng công trường Duy Tân mà chính quyền miền Nam VNCH đã làm tượng con rùa trên lưng đội tấm bia ghi tên (theo trật tự ABC) các quốc gia đã viện trợ (hoặc là đồng minh thiết yếu) cho chế độ của mình như là một cử chỉ trân trọng, biết ơn (đến các quốc gia đó). Có lẽ vậy mà công trường Duy Tân này còn có tên là công trường Quốc Tế Viện Trợ. Ngoài hình ảnh là một địa điểm (như công viên, đài…) đẹp, tô vẽ thêm cho cảnh quan Sài Gòn (từng được gọi là Hòn Ngọc Viễn Đông khi đó) thì hình ảnh rùa đội bia (tại Hồ Con Rùa) này cũng ít nhiều gây cho khách nước ngoài biết về nét văn hóa (qua hình ảnh con rùa đội bia) Việt. Gần như là chắc chắn, con rùa đội bia tại Hồ Con Rùa là tượng rùa đội bia lớn nhất (từ trước tới nay) ở trong nước.
Biến cố 30-4-1975 đến, chính quyền mới âm thầm để các vụ đập phá công khai các tượng đài trong khu vực nội đô Sài Gòn. Tượng 2 quân nhân Thủy Quân Lục Chiến trước tòa nhà Hạ Nghị Viện (nhà hát thành phố bây giờ) bị kéo đổ. Tượng Biệt Động Quân tại trung tâm giao lộ Ngã 7 cũng bị đập tan tành. Tượng người lính ngồi nghỉ chân (có tên là Thương Tiếc) bên cạnh đường vào nghĩa trang quân đội miền Nam VNCH ở Biên Hòa cũng bị lật đổ cắm đầu và kéo bỏ mất tiêu. Bào chữa cho các vụ đập phá này thì vì đây là các hình ảnh của quân đội phía thua cuộc nên không thể để tồn tại. Cũng được đi… nhưng còn tượng của các danh nhân Việt như tượng Petrus Ký (Trương Chánh Ký, Trương Vĩnh Ký), người được xếp vào danh sách toàn cầu thập bát quân tử trong thế kỷ 19 (do tự điển bách khoa LaRousse định hạng) nằm ở khu vực gần nhà thờ Đức Bà (công viên Kennedy) cũng bị kéo xếp bỏ nhà kho và chỉ mới không lâu, tượng này được đem về chưng trong viện Bảo tàng Mỹ Thuật. Tượng thương gia Quách Đàm (người xây cái chợ Bình Tây to đùng, góp phần làm phát đạt vùng Chợ Lớn bây giờ) dựng trong chợ cũng bị kéo bỏ (bây giờ thấy tượng ông cũng chưng trong viện bảo tàng Mỹ Thuật). Còn các tượng danh nhân lịch sử khác như Hưng Đạo Vương (ở bến Bạch Đằng), tượng Trần Nguyên Hãn (giữa bùng binh trước chợ Bến Thành nay viện lý do xây nhà ga điện ngầm, băng đảng Việt Cộng đã cho dời tượng đi mất), tượng Phan Đình Phùng (tại giao lộ tròn, trước bưu điện Chợ Lớn)… thì đã bị gỡ bỏ hàng chữ, tấm chữ ghi tên là thánh tổ của 1 quân binh chủng thời miền Nam VNCH. Làm vậy cũng được vì giang sơn giờ đã đổi chủ, có làm điều đó thì cũng không lạ và cũng chẳng ai chê trách nhưng lại có tin là (thoang thoảng trên báo trong thời gian gần đây) có các giới chức (lãnh đạo và trong ngành mỹ thuật) chê các tượng đài cũ thời xưa (không nói rõ là miền Nam VNCH) dựng đều cũ (đúng, vì cả mấy chục năm rồi) và không đẹp (có lẽ theo cảm quan) nên nếu có thể thì sẽ thay thế (bằng các tượng đài nào khác thì chưa biết).
Khi các cán bộ văn hóa dừng chân tại Hồ Con Rùa ngay sau biến cố 30-4-1975. Tất nhiên là họ đã phải thấy tượng con rùa đội bia này và theo PTV thì đây chính là lý do mà phải có vụ nổ cho banh con Rùa Đội Bia rồi nhân đó mà thành lý do để tó các văn, thi sĩ miền Nam VNCH vào cũi luôn. Từng rêu rao (ở ngoài miền Bắc và trong các vùng xôi đậu do họ chiếm đóng) là chính quyền miền Nam VNCH bị cả thế giới loài người lên án, bị cô lập trên chính trường quốc tế vì độc ác, phi nhân, không có chính nghĩa… Mà nay, sao lại có tấm bia ghi ơn tới 44 quốc gia viện trợ (cùng giao hảo vì có viện trợ là đã có mối giao hảo rồi) cho chính thể này? Sự thật này, sẽ không thể để tồn tại được (vì những người không biết sẽ biết khi có lúc nào họ đó ghé chân đến đây), nhưng cũng không thể tay quai búa, xà beng… để phá bỏ công khai. Thôi thì chỉ có một quả mìn là tiện nhất. Vả lại, cái tên Hồ Con Rùa chỉ nên để riêng cho có một cái hồ có rùa ngoài Hà Nội thôi (tức hồ Gươm, hồ Hoàn Kiếm, hồ Con Rùa), hiển hiện trong lịch sử, hiện tại và tương lai. Không thể có hai Hồ Con Rùa được.
Đây là một truyện dài được Phạm Thắng Vũ (PTV) viết lại từ các truyện ngắn (có đánh số thứ tự) và hình thì copy trên Net dùng để minh họa theo truyện (chỉ những hình của riêng truyện đó thì PTV sẽ ghi chú thích ở dưới).
Người ta nói câu: ” Đi Đêm Có Ngày Gặp Ma “. Vậy thì ma có thật hay không? Người bảo có, người nói không… biết tin ai nhưng có điều người sợ ma thì rất thích nghe kể chuyện ma. PTV xin hầu các bạn trong trang diễn đàn nhavanphamthangvu.wordpress.com này ít câu chuyện ma quỷ mà bản thân biết hoặc kể lại (cũng copy từ các diễn đàn khác về). Mong các bạn đọc cho vui thôi còn tin hay không thì lại y như kết luận ở trên. Có ma, vì để camera quay lại được ảnh Ma. Không có ma, vì chỉ là ảo ảnh thần hồn nát thần tính và ảnh chính là kỹ thuật photoshop của thời bây giờ.
Đó là chuyện ma quỷ, còn chuyện huyền bí hay siêu hình thì như quý bạn đã biết, thế giới chúng ta đang sống thì chỉ có 3 chiều là rộng, dài và sâu (hay chiều cao). Vật chất hiển hiện trước mặt chúng ta chỉ ở 3 dạng (hay trạng thái) là đặc (hay rắn), lỏng và khí. Con người cũng đã lên được mặt trăng và chế tạo được các ống kính thiên văn để có thể biết được hàng tỉ tỉ hành tinh khác trong cõi vũ trụ bao la. Rồi những hình ảnh về dĩa bay (UFO) của người ngoài trái đất (Alien) xuất hiện nơi này nơi kia (hàng trăm ngàn báo cáo từ khắp nơi trên thế giới)… mà nay mình còn kể (hay nói) về chuyện ma quỷ, siêu hình, huyền bí liệu có thuyết phục để người ta tin là có. Nhưng cũng có người bảo là người ta đã biết có thêm các dạng vật chất khác như plasma (nóng hoặc nguội), hạt (Sigma, Higgs…) rồi phản vật chất nữa. Ta cũng có định luật bảo toàn năng lượng (chi phối cho tất cả các lý thuyết vật lý, cơ học, điện từ, hạt nhân…) nhưng biết đâu (một ngày nào đó) người ta sẽ khám phá ra thêm các định luật khác để giúp chúng ta biết được tường tận các chiều không gian khác (thứ 4, thứ 5… ) mà người ta cho là UFO đến được trái đất bằng các chiều không gian này. Và những chuyện ma quỷ, đầu thai, luân hồi… có thể thấy họ hiển hiện trong các không gian thứ 6, thứ 7 (như dạng hình lập phương nhiều chiều) sẽ không bị cho là nhảm nhí, mê tín, phản khoa học nữa.
1.Kho Vàng Trong Núi.
Mẹ của Phạm Thắng Vũ (PTV) người gốc tỉnh Hà Đông ngoài miền Bắc. Tỉnh này có tên cũ là tỉnh Cầu Đơ chung quanh giáp với các tỉnh Sơn Tây, Hòa Bình, Hà Nam, Hưng Yên, Bắc Ninh, Phúc Yên. Là một tỉnh đồng bằng, thế đất thấp thường bị lụt nhưng ở vùng giáp với tỉnh Hòa Bình (phía Tây Nam của tỉnh) thì có đồi núi và câu chuyện mà PTV kể ở đây xẩy ra ở vùng đất có đồi núi này. Quê ngoại của mẹ PTV ở vùng Hương Sơn (huyện Mỹ Đức bây giờ), là vùng có đồi núi hoang vu trong các thập niên 1920, 1930, 1940… Mẹ PTV sinh năm 1925 khi bà trưởng thành thì trong làng có một cậu thiếu niên tên là Ư mồ côi, không thân nhân, tuổi khoảng 9, 10. Tên Ư là do người làng đặt cho vì cậu này theo mẹ đến làng (dạng tha phương cầu thực) sống chỉ ít ngày thì mẹ cậu ta chết. Mẹ chết, không người nương tựa rồi cậu cứ khóc rấm rức hoài mà thành tên. Thời đó vì mẹ con cậu Ư không có giấy tờ mà cũng chẳng ai biết lai lịch họ rừ đâ đến nên cậu sống lang thang (làng nghèo nên không ai nhận nuôi cậu), người làng cho gì thì cậu ăn nấy hoặc đi theo người khác làm việc lặt vặt… kiếm bữa cơm qua ngày.
Cứ như vậy cho đến khi cậu được khoảng 14 tuổi thì thường mò vào vào trong các vùng đồi núi cả nhiều ngày trời rồi lại về làng mà chẳng ai biết cậu ăn uống bằng gì? Có người bảo là cậu Ư chỉ ăn ổi thôi vì trong vùng đồi núi đó có những cây ổi hoang và thỉnh thoảng dân làng khi có dịp đi vào các vùng đó, họ hái quả mang về ăn cho vui miệng (rất ít khi bán vì hầu như vườn nhà nào cũng trồng ổi). Một lần thấy cậu Ư trở về từ vùng đồi núi đó, có người hỏi chuyện thì cậu kể là đã gặp được chị gái rồi. Cậu kể khi gặp chị gái, than van đói bụng đòi ăn thì người chị gái đó bảo là không có gì cho cậu ăn cả. Ai nghe cậu kể vậy cũng cười vì biết lai lịch của cậu (đến làng với mẹ khi còn trẻ nít và mẹ cậu đã chết ngay sau đó rồi). Cậu Ư này tâm tính hiền lành nhưng có lúc bất thường, người làng bảo là cậu dở khùng dở điên nên khi nghe cậu nói chuyện thì cũng chẳng ai để ý đến. Vài lần như vậy thì có hôm cậu Ư về gặp mấy người trong làng và kể là chị gái cho cậu thức ăn mà cậu không thể ăn được. Hỏi đến thức ăn của người chị gái đó thì cậu mở tay ra cho thấy là một đoạn xà tích (dây chuyền) vàng. Xem kỹ đoạn xà tích thì đó là vàng mười thật (24 cara) và họ liền gạ cậu đổi vàng lấy thức ăn. Ăn xong rồi thì mấy người biết chuyện này hỏi cậu về người chị gái đó cùng nơi mà cậu đã đến (chỗ người chị gái cho vàng). Mấy người này bảo nhau giữ kín không cho người ngoài biết chuyện cậu Ư kể. Họ biết người chị gái của cậu Ư chính là thần giữ của kho vàng. Một trinh nữ mà người Tàu yểm từ xưa còn lại và bảo cậu dẫn đường cho họ đi tìm. Cậu đi (họ ngầm đi theo phía sau) nhưng quanh quẩn mãi hết đồi, rừng rồi lại suối… mà chẳng ai thấy cậu dẫn đến hang động hay hầm hố, những chỗ bọn họ nghĩ là kho báu gì cả. Vài lần đi tìm như vậy mà không ra rồi thì đám người này chán đành phải ngưng, bảo phải là hậu duệ của chủ kho vàng thì thần mới cho thấy chỗ chôn dấu và mới lấy được của. Họ không giữ kín chuyện nữa thì cả làng mới biết chuyện của cậu Ư. Cậu Ư kể là đã được chị gái thần giữ của cho đoạn xà tích đó ngắt ra từ một dây nguyên trong đống vàng ở góc xó của một hang núi.
Mẹ PTV kể là do con cháu chủ kho vàng đã quá lâu (chắc cả mấy trăm năm rồi) không có người đến nhận hoặc có thể do loạn lạc bên nước Tàu hay thân nhân đã chết hoặc gia phả dẫn đường đến kho báu bị mất nên kho vàng thành vô chủ. Thần giữ của muốn cho ai thì người đó sẽ được hoặc ai có phúc, có số hưởng của trời cho thì sẽ tình cờ tìm thấy như đào đất hay thám hiểm vào trúng hang núi dấu vàng. Từ xưa, người Tàu khi cai trị nước Việt thì khi vơ vét được nhiều vàng (gồm vòng, cà rá, tiền, ngọc quý hoặc vàng thỏi) thì họ tìm một nơi kín đáo thường là hang động ở vùng rừng núi để dấu. Chuyện kể là họ rất ác khi bắt một trinh nữ người nước Việt (dưới 18 tuổi) chôn sống trong chỗ dấu vàng này. Nạn nhân sẽ chết để làm thần giữ của. Đại loại chuyện người Tàu yểm vàng ở vùng rừng nước Việt là vậy.
Sau lần có đoạn xà tích vàng thì cậu Ư không bao giờ gặp lại người chị gái thần giữ của đó nữa nhưng nhờ vậy mà có lúc, cậu Ư vẫn được người trong làng hay có khi là các người khách từ làng khác xa xôi tìm đến nuôi ăn… với hy vọng giúp họ tìm được kho vàng bí mật trong vùng đồi núi này.
Mẹ PTV còn kể thêm là có thể do thần giữ của khi còn sống cũng có người em trai như cậu Ư nên khi gặp cậu lang thang trong vùng đồi núi gần kho vàng khóc lóc vì đói, mới nẩy lòng thương nên mới hiện ra cho cậu đoạn xà tích vàng. Cho cậu Ư vàng vì thời hạn giữ kho báu đã hết trước khi thần giữ của hóa thân sang kiếp khác và kho vàng đó nhập thành đất của đất đồi núi rừng hoang. Còn cậu Ư? Khi di cư vào miền Nam dịp năm 195), tại trại tiếp cư ở vùng Phú Thọ gần trường đua ngựa ở Sài Gòn, mẹ PTV gặp một người làng và nhân hỏi đến cậu Ư thì được người đó kể là đã gặp cậu tại một khu phố ở Hà Nội và không biết cậu ta có di cư vào miền Nam hay không?
Đọc cho vui thôi nha, tin hay không thì tuỳ.
2. Tiền Của Ma.
Chuyện này xẩy ra lâu lắm rồi trong quãng năm 1963 hay 1964 gì đó (khi PTV mới khoảng 6, 7 tuổi thôi). Mẹ PTV có một người em họ xa tên là Dậu, mồ côi cha mẹ từ năm mới sinh ra. Anh em PTV trong nhà, được mẹ dặn gọi dì là dì Dậu. Tên của dì là do người trong họ đặt cho như một kỷ niệm về cái chết của cha mẹ dì trong cái năm có nạn đói ở miền Bắc. PTV cũng không biết nhờ đâu mà dì sống được trong cái thảm nạn năm đó và cũng do ai đưa dẫn mà dì di cư vào miền Nam dịp 1954 để rồi bây giờ đến trú tại nhà. Chỉ biết là dì da dẻ trắng trẻo, tướng người thon thả và khuôn mặt khá đẹp. Hôm đó, một buổi chiều sau khi chạy chơi trong xóm với đám bạn cùng tuổi đến chán, PTV về nhà định đi tắm trước khi trời tối thì gặp mẹ đang ngồi tiếp hai người khách. Khách đây là dì Dậu và người chồng của dì. Tính ra thì khi đó dì ở tuổi mới mười chín, đôi mươi mà sao PTV thấy dì chững chạc như là mẹ vậy. Cậu Luận, chồng của dì là người miền Nam và điều đó cũng là cái lạ cho người trong họ hàng. Lấy ai không lấy lại đi lấy dân Nam Kỳ! Mẹ PTV lúc đầu cũng nói riêng vậy với dì nhưng sau một thời gian sống trong nhà thì mới biết cậu Luận là người rất hiền, tính ít nói và rất chịu khó làm lụng để nuôi dì Dậu ở không nên ai cũng thương cả. Thực ra thì cũng không hẳn là dì Dậu chỉ ngồi không cho chồng nuôi mà dì đi chợ mỗi buổi sáng để mua thịt heo, củ sắn trắng… về làm các đồ nhồi cho cậu Luận đi bán bánh mì mỗi buổi chiều tối. Cậu Luận có một chiếc xe đạp gắn cái thùng nhôm nắp tròn to tướng ở yên sau. Trong thùng nhôm đó có hai ngăn, một bên là các ổ bánh mì khá dài được ủ trong một bao vải kín. Ngăn bên kia có một khay nhỏ để ít than nóng dưới đáy thùng dùng làm nóng bánh mì trước khi bán cho khách. Giữa hai ngăn là chỗ cậu Luận để thịt heo luộc chín bôi phẩm đỏ ngoài phần da chung với chả lụa, thịt xíu mại cùng đồ chua là củ sắn trắng sắt thành sợi ngâm dấm, lọ ớt băm, chai nước tương. Bánh mì, cậu Luận lấy từ một cái lò tuốt gần trường đua ngựa Phú Thọ về hướng Chợ Lớn. Ở ghi đông xe có gắn cái kèn tay nhỏ. Cứ chập tối thì cậu Luận bắt đầu đạp xe bánh mì đó đi bán cho tới quá khuya thì về nghỉ. Đắt hàng, hết bánh bán thì về sớm nhưng cũng có hôm phải đến gần sáng mà trong thùng vẫn còn dư bánh chưa bán hết. Cả nhà PTV phải bữa ăn bánh mì giúp cậu. Như đã kể, nhà dân di cư từ miền Bắc vào cất nhà gần bên đường chính. Đi vô hơi sâu thì nhà cửa rất thưa thớt dần, gần như đất bỏ hoang đầy mồ mả cùng cây thưa và lau sậy. Vẫn có người thỉnh thoảng còn bắt được chồn, trút, rùa… nữa. Mỗi tối, cậu Luận đạp xe đi bán bánh mì thì phải đảo cả một vùng rất rộng để tìm khách ăn đêm. Cậu đạp xe, thỉnh thoảng bóp kèn báo hiệu cho người ta biết có xe bán bánh mì. Xe chạy trong đêm được là nhờ có bóng đèn chiếu sáng dùng một cục dinamo nhỏ gắn bám vào niền xe. Ở thùng nhôm đằng sau còn treo một cái đèn bão nhỏ giúp cậu thấy đường mà làm bánh khi bán hàng.
Đến ở chung, mẹ PTV cho vợ chồng dì Dậu cất thêm một cái chái nhỏ bên cạnh nhà còn bếp, giếng nước… vẫn xài với gia đình. Có một buổi khuya, cậu Luận đạp xe về giao tiền cho dì Luận rồi đi ngủ ngay. Ngày nào cũng vậy, đạp xe bán hàng cả mấy giờ đồng hồ như cậu Luận rất mệt nên về nhà thì cậu ngủ vùi, mặc trời sáng cho dì Dậu tự lo sắp sẵn hàng để bán cho buổi chiều. Như thường ngày, dì Dậu lấy túi vải đựng tiền bán hàng trong đêm ra đếm, tính lời lỗ thì thấy chỉ có ít tiền cắc tiền giấy chung với lá, giấy vụn. Dì nghĩ tiền để trong thùng nhôm nên lục tìm mà không thấy, đành phải gọi cậu dậy. Cậu Luận nói tiền để trong giỏ nhưng dì coi lại vẫn không có. Xem kỹ các mảnh lá thì thấy lá cắt thành hình vuông, chữ nhật và giấy là các mảnh vàng mã, tiền âm phủ. Người trong xóm nghe chuyện cậu Luận bán bánh mì cho ma nên mới chạy đến xem tiền. Các mảnh tiền vàng mã thì không ai lạ nhưng tiền lá cây đều một màu tái như bị luộc chín nhưng ở phần rìa lại có màu vàng đậm hơn. Người xem bảo đây là lá chuối nhưng người khác bảo lá củ rong hoặc lá cây nghệ… mà sau cùng thì là lá cây gì thì ai cũng không chắc. Hỏi, cậu Luận trả lời hồi khuya rõ ràng đã gặp người mua bánh trả bằng tiền mà bây giờ chỉ là giấy và lá thì cũng chẳng biết do đâu ra? Ai cũng bảo là đây là tiền của ma không nên giữ nó trong nhà. Dì Dậu sợ và nghe lời người ta khuyên, đã đốt bỏ các tờ tiền giấy, lá đó. Sau, dì còn xin nước thánh từ nhà thờ đạo Thiên Chúa về, đem vẩy vào cái xe đạp cùng thùng nhôm bánh mì đó.
3. Người Không Đầu Đứng Giữa Đường Lộ.
Ngày 29 tháng 4 năm 1975, lúc đó khoảng 1 giờ trưa ngay tại chợ Thành Quan Năm (đây là trại lính công binh của 2 Liên Đoàn 30 Công Binh Chiến Đấu và Liên Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo VNCH) khi đoàn xe của Việt Cộng (gồm xe Tăng T54, Molotova, Gaz…) vượt Cầu Bông (ranh giới giữa quân Hốc Môn- tỉnh Gia Định và quận Củ Chi-tỉnh Hậu Nghĩa) và đang tiến lên tới Ngã Ba Hồng Châu thì có hai xe GMC của công binh (không rõ thuộc đơn vị nào) chạy từ trong Thành Quan Năm ra. Hai chiếc xe nhà binh này nhận công tác đậu giữa đường lộ (quốc lộ 22 từ hướng Sài Gòn đi lên Tây Ninh) để cản đường tiến quân của đoàn xe Việt Cộng. Chiếc GMC đi đầu vừa chạy qua khỏi chợ Thành Quan Năm (có tên là chợ Nam Hưng) thì bị Việt Cộng (ở các chiếc đi đầu) bắn xối xả. Người lính trên chiếc xe đó vội thắng gấp xe lại (đầu xe đâm vào lề đường) và ông ta nhẩy ra khỏi cabin chiếc xe. Ông chạy được vài bước chân thì trúng đạn nên nằm lăn trên đường gần giữa lộ. Ông ta nằm đó chỉ bị thương ở chân, bụng nhưng vẫn còn sống. Chiếc xe GMC chạy sau thì cũng đâm vào lề đường y như vậy nhưng người lính trên chiếc xe này chạy thoát thân. Đoàn xe Việt Cộng chạy tới và chúng đã cán qua đầu người lính này dẹp lép. Xe Việt Cộng qua lại cán mãi cho đến khi không còn cái đầu của người lính đó nữa. Chiều ngày hôm 29 năm đó, dân lành đã đem chôn người lính trong nghĩa địa chùa Hoằng Pháp.
Mấy năm sau, có một bà tuổi tầm gần 60 thường gánh một gánh cháo lòng để bán buổi sớm cho dân lao động thường tụ họp chờ xe khách tại chợ Thành Quan Năm. Một lần, bà này gánh hàng đến ngay đoạn đường chỗ người lính chết trước kia thì thấy một bóng người đứng giữa lộ. Tưởng người đứng chơi khuya, bà gánh hàng đến gần nhòm cho kỹ và định chào thì thấy bóng người này rất lạ. Nhòm kỹ người đó thì bà thất kinh đến độ quăng bỏ cả gánh cháo mà chạy. Chạy đến tiệm cà phê mở sớm gần Ngã Ba Hồng Châu (cũng bán cho khách lao động đi làm ăn sớm), gặp khách uống cà phê ở đó thì bà này dần dần hoàn hồn, kể lại chuyện mình vừa gặp. Vài người khách giúp bà đi đến nơi đó để thu dọn gánh hàng thì thấy nó vẫn còn nguyên nằm trên mặt lộ. Đòn gánh nằm yên trên quai gánh, cháo trong nồi, tô chén, muỗng… vẫn còn nguyên. Hỏi chuyện vừa gặp thì bà bảo là bóng người đứng giữa đường lộ đó không có cái đầu.
4. Lời Thề Ứng Nghiệm.
Chuyện ông lính thuộc quân lực VNCH bị chết khi nhận lệnh của cấp chỉ huy năm đó (ngày 29-4-1975) nhằm cản bước tiến quân của đoàn xe Việt Cộng (sau khi chúng vượt qua căn cứ Hoàng Diệu (phe Việt Cộng gọi là căn cứ Đồng Dù) của Sư đoàn 25 Bộ Binh trước đó 1 vài giờ đồng hồ) để tiến về thủ đô Sài Gòn. Có thể khi nhận lệnh thì hai người lính này cũng biết việc mình làm sẽ chỉ 1 phần sống tới 9 phần chết nhưng quân lệnh thì phải thi hành. Kết quả là ông ta đã chết vì lái chiếc xe nhà binh GMC đi đầu. Xe của đồng đội ông chạy sau và nhờ vậy mà thoát nạn. Cho đến tận chiều ngày hôm đó thì ông lính thoát nạn này mới quay trở lại chỗ bạn mình bị tử nạn và tìm cách để đem an táng bạn mình (như đã nói ở trên). Khi đó thì phe Việt Cộng đã chiếm hoàn toàn khu vực Hốc Môn này rồi và xác của ông lính bị chết đó, dân lành đã kéo vào nằm sát bên lộ để tránh dòng xe của phe Việt Cộng vẫn tiếp tục chạy trên đường. Ông lính sống sót này (bây giờ đã mặc bộ đồ dân sự) chứng minh mình là bạn của người chết nên nói tên của ông lính chết ra và sau đó có người (đứng chung quanh) mới moi túi quần trận của ông lính bị chết thì thấy cái bóp. Mở cái bóp đó ra thì thấy có giấy tờ lính mang đúng tên như vậy (ông lính này tên là Nguyễn Ngọc Thao)
Khoảng thập niên 1990 thì ngay tại chợ Thành Quan Năm có nhiều gia đình mà nhà sát mặt đường làm nghề say sát gạo gia công. Có một gia đình người Hoa (Việt gốc Tàu), nhà ngay tại chỗ người lính bị chết đó cũng hành nghề say sát gạo gia công này (có khi chủ nhà mua lúa của lái buôn lúa về say sát xong xuôi thì bán lại cho dân buôn gạo). Gia đình này có một chị mà PTV gọi tên là chị X. Chị X này không có chồng con gì hết. Khách (bạn hàng) mang lúa đến nhà chị X để xay gia công thì có một ông mà PTV gọi là ông Y. Ông Y là người lớn tuổi dân Sài Gòn, một người buôn gạo để xuất cảng. Một lần ông Y đến mua gạo với gia đình chị X rồi ông đã trả tiền xong xuôi (trả tiền trước, lấy hàng sau) nhưng hôm đến lấy hàng (gạo) thì chị X bảo là ông ta chưa đưa tiền. Ông Y nói đã đưa rồi còn chị X thì bảo là chưa. Cãi nhau qua lại một chập thì ông Y bảo chị X dám thề là chưa lấy tiền không? Chị X thề là nếu mà chị đã nhận tiền của ông Y rồi mà ăn gian thì xe hơi sẽ ăn chị. Ông Y nghe vậy đành phải trả tiền gạo này. Chuyện chỉ có vậy thôi và vài ngày sau giữa buổi trưa thì tự nhiên chị X lái xe máy (loại xe Honda cắm chìa khóa vào và mở khóa thì máy xe tự nổ không cần đạp) lao từ trong nhà ra đường và bị chiếc xe đò đang trớn chạy tới nên đụng chị X chết ngay tại chỗ. Người ta bảo là do chị X ngồi lên xe mà xe còn gài số nên khi chị xoay chìa khóa làm máy xe nổ và nó vọt thẳng tới trước (lao ra đường lộ) nên gặp tai nạn (vì xe đò đang chạy tới, tài xế thắng không kịp). Khi sự việc xẩy ra thì ông Y cũng có mặt gần đó (ông này đến các tiệm xay sát gạo khác) nên ông ta lại xem rồi than thở : ” Cô X ơi, nếu biết cớ sự xẩy ra như vầy thì thôi, tôi không buộc cô phải thề độc làm chi “.
5. Làm Ngay Nhà Mới Cho Cố Ngay Đi.
Một người định cư bên Đức kể rằng hồi còn ở Việt Nam, nhà anh ta ở Sài Gòn gần nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, bà Cố anh ấy mất đã lâu và yên nghỉ tại nghĩa trang này. Năm 1982, chính quyền Việt Cộng ra lệnh giải tỏa các nghĩa trang trong thành phố Sài Gòn (Mạc Đĩnh Chi, Nhị Tì Quảng Đông, Chí Hòa, Nhân Hòa..) để họ lấy đất làm việc khác (nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi sau này thành công viên Lê Văn Tám, nghĩa trang Đô Thành trở thành công viên Lê Thị Riêng…). Chính quyền Việt Cộng thông báo trên TV, báo chí, đài phát thanh cho các thân nhân của người quá cố (có mộ phần trong nghĩa địa) biết để đến tự giải toả lấy (bốc cốt). Thời điểm đấy có rất nhiều người, cả những người nước ngoài từ Pháp, vì nghĩa trang có khá nhiều người Pháp được chôn tại đây đến nhận hài cốt. (Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi di dời đến hết ngày 30 tháng 8 năm 1983).
Anh bạn này (PTV tạm gọi là anh A) chưa từng gặp bà Cố ngoài đời, chỉ biết qua ảnh mà cha mẹ anh thờ tại nhà. Cha mẹ anh A nhận được thư từ chú bác bên Pháp, cùng gửi tiền về để di dời hài cốt bà Cố. Cha mẹ anh A cũng chuẩn bị xong cả nhưng có ý nán lại vài tuần sau vì nghĩa trang hiện quá đông (thời gian chính quyền Việt Cộng cho quá gấp, đám âm công làm không xuể).
Một đêm anh A đang ngủ thì chợt một dải vải trắng quệt vào mặt làm anh ta bừng tỉnh (sau này anh A kể lại là không hẳn là tỉnh cũng chẳng phải là thức). Anh nhìn chằm chằm ra thì thấy vạt mùng mình bị kéo tung, gió thổi phất phơ, một bà lão lặng nhìn anh rồi nói: ” Con ơi! Con nói cha mẹ làm ngay nhà mới cho Cố đi, nước tràn vào làm Cố lạnh lắm “. Nói xong bóng trắng biến mất và anh A choàng tỉnh hẳn, nhìn đồng hồ đã là 3 giờ sáng. Quá sợ, anh A vội đánh thức cha mẹ dậy và thuật lại câu chuyện.
Sáng ra, cả nhà vội chạy vào nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi xem sự thể. Hai bên mộ cụ Cố là hai ngôi mộ đã được bốc đi (vừa xong trong tuần lễ trước) và bây giờ đã đầy nước lấp xấp (do mấy hôm trước trời mưa). Thế là trong ngày cả nhà anh ấy vội vã lo chuyện di dời cụ đi nơi khác.
Sau này anh A nói: ” Mình là dân kỹ thuật, được học và hấp thụ khoa học chính thống từ nhỏ, thường vẫn không tin những chuyện như vậy, nhưng nay thì phải thay đổi quan điểm về cõi âm “.
6. Tiếng Gọi Trên Biển Trong Cơn Giông Bão.
Tiếng Gọi Trên Biển Trong Cơn Giông Bão.
Hồi còn tạm dung tại đảo tị nạn Galang thì PTV có nghe anh Đinh V (một bạn làm thiện nguyện chung trong phòng) kể là anh ta có một người bạn. Bạn anh tên là Long. Anh Long khi sang định cư nước ngoài (hình như là CANADA) có viết thư về quê nhà kể chuyện vượt biên của anh như sau: Anh Long đi vượt biên trên một chiếc ghe nhỏ chứa khoảng 50 hay 60 thuyền nhân gì đó. Ghe thoát ra khỏi nước rồi thì một chiều tối gặp cơn mưa. Mưa rất mạnh đến thành các cơn dông lớn làm ai cũng nghĩ là ghe sẽ chìm đến nơi. Mưa và dông kéo dài cho đến khuya mà vẫn không ngớt. Trong tiếng gió rít thì đột nhiên người trên ghe nghe có tiếng kêu Long… Long ơi! rất rõ. Tiếng kêu lập đi lập lại theo từng cơn dông và anh Long rất sợ vì rõ ràng tiếng gió gọi tên anh. Dông càng mạnh, gió càng to thì tiếng kêu tên Long càng lớn làm ai trên ghe cũng sợ. Rồi người trên ghe mới hỏi nhau có ai tên là Long không? Anh Long im lặng, không nhận. Dù anh có chối thì sau cùng người đi trong ghe cũng có người biết tên anh nên họ nói ra (sống chung trong khu phố) cho mọi người. Cả ghe bàn nhau rồi nói với anh là Thần gió hay Hà Bá gọi tên mày là họ muốn lấy mạng mày đó. Thôi thì mày hy sinh nhẩy xuống biển đi để cho cả ghe được sống. Chứ cứ để yên mãi như vầy thì rồi ghe sẽ chìm thôi. Tất nhiên anh Long không chịu (ai muốn mình chết), anh nói là nếu nhẩy xuống nước sẽ chết vì bản thân không biết bơi và nhất là mặt biển đang cơn dông bão.
Đám người trên ghe mới trấn an anh, họ lấy mấy cái can nhựa rỗng (trước đó chứa dầu chạy máy ghe) cột chặt chung quanh người anh Long và sau đó, dù anh không chịu, vẫn bị họ vất luôn xuống biển. Khi bị vất xuống biển, vì quá kinh sợ nên anh Long đã ngất đi cho mãi đến khi tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trên một chiếc ghe đánh cá của ngư dân Mã Lai. Sau đó anh Long được chuyển vào trại tị nạn và đến ngày có list thì rời trại đi định cư.
Riêng chiếc ghe đó thì anh Long không hề nghe tin tức gì qua thăm hỏi thư từ với thân nhân bên quê nhà khi biết những người đi chung với anh (trong cùng khu phố) trên chiếc ghe vẫn bặt tin tức.
7. Ma Áo Đỏ Đứng Bên Vệ Đường.
Ở Việt Nam, khi ta chạy xe trên đường (nhất là ở các đoạn xa lộ nối từ vùng này sang vùng khác) thì thỉnh thoảng sẽ bắt gặp những cái miếu nhỏ nằm ngay bên vệ đường. Những cái miếu đó ai lập ra và lập cho ai? Nếu khách du có thắc mắc hỏi thăm thì thường khi được dân địa phương kể về lai lịch của cái miếu mà khi xong chuyện, người nghe bắt phải rùng mình vì liên can đến những cái chết oan khuất, thảm khốc ngay tại nơi lập miếu. Thường thì các miếu đó có tên chung là miếu oan hồn (hoặc cô hồn) và không cho biết tên của người tử nạn. Bên Hoa Kỳ thì PTV cũng thường thấy có những khúc đường hay ngay tại giao lộ (ngã tư) có một bia mộ nhỏ hoặc cây thập giá và thỉnh thoảng thấy ai đó đặt các vòng hoa, bó bông… ở ngay bia mộ, cây thập giá này. Hỏi thăm thì đúng y như PTV đoán, đó là chỗ có một tai nạn (thường là tai nạn xe hơi) và làm chết người rồi thân nhân đã dựng các bia mộ nhỏ, cây thập giá… như một nhắc nhở về cá nhân người quá cố đó (một cô gái hay một chàng trai hoặc một người con trong nhà) với người lập ra nó (tình cảm với nhau khi còn sống).Các bia mộ nhỏ, thập giá mà PTV vừa nói cũng tương tự như một cái miếu nhang đèn cho nạn nhân bên Việt Nam. Ý nghĩa thì không khác nhưng hình ảnh giữa cái miếu bên Việt Nam với bia mộ nhỏ hoặc cây thập giá ở Hoa Kỳ nó lại khác. Miếu oan hồn (hay cô hồn) bên Việt Nam tạo cho người đi đường một cảm giác sờ sợ như là mình đang ở một nơi đã (và có thể sẽ) xẩy ra tai nạn thảm khốc… khiến phải cẩn thận chú ý khi lái xe hoặc đi ngang ngay chỗ có miếu thờ. Còn bên Hoa Kỳ thì không có cái cảm giác này khi ta lái xe (hay đi ngang) qua chỗ có để bó bông, cây thập giá… tưởng niệm người quá cố đó. Bên Việt Nam có nhiều khúc đường mà tai nạn giao thông xẩy ra thường xuyên thì ngoài cái miểu oan hồn, có khi nhà nước còn phải làm các tấm bảng lớn (pannel) với hàng chữ: Đoạn Đường Thường Xẩy Ra Tai Nạn Xin Đề Phòng… Tuy nhiên, vẫn không hiệu quả bằng những ngôi miếu oan hồn ven đường. Bất chợt gặp cái miễu oan hồn bên vệ đường, các tài xế chạy xe đường dài đều phải tự nhiên lái xe cẩn thận lại như một bài học thuộc lòng.
Ven đường xuyên Á, từ cầu vượt An Sương đến huyện Củ Chi (về hướng tỉnh Tây Ninh), người ta đếm được có 25 cái miếu mọc ven đường. Từ Bình Chánh đến thị xã Tân An, Long An có 16 cái miếu. Miếu ven đường nhiều nhất có lẽ thuộc đoạn đường từ Ngã ba Trung Lương đến Vĩnh Long. Cứ vài km đường là có một ngôi miếu. Khi giải tỏa mở rộng đường một số ngôi miếu đã bị phá bỏ dẹp đi, nhưng sau đó xảy ra liên tiếp những vụ tai nạn giao thông, thế là người ta lại xây cái mới.
Thông thường, một ngôi miếu oan hồn “ cất ” theo kiểu nhà ngói ba gian có diện tích khoảng 160 cm vuông. Nhưng tại Bến Lức có một ngôi miếu lớn hơn gấp 10 lần ngôi miếu thông thường. Một người dân sống lâu năm gần đó nhẩm tính theo trí nhớ cho biết, từ khoảng năm 1975 trở lại đây có hơn 100 vụ tai nạn giao thông xảy ra tại nơi đây, trong đó có ít nhất 30 người tử vong. Đặc biệt có vụ tai nạn rất thảm khốc. Một người phụ nữ dắt bò đi trên đường. Do con bò thấy xe thường nhảy hoảng, bà ta cuộn tròn dây mũi bò vào bàn tay để tránh tuột tay khi bò nhảy. Bất ngờ một chiếc xe tải chạy ngang qua bóp kèn. Con bò hoảng hốt lồng lên chạy băng qua đường. Sợi dây mũi xiết chặt bàn tay người phụ nữ kéo bà ngã xoãi xuống đất rồi lê ra giữa đường vào ngay đầu xe tải. Tài xế bị bất ngờ đã đạp xiết thắng. Bánh xe bị thắng bắt dừng quay nhưng quán tính đẩy toàn thân chiếc xe lao tới. Vì vậy, thân hình người phụ nữ bị bánh xe nghiến dài dưới mặt đường hơn 10 mét. Từ đó, cứ đến đoạn đường này, những tài xế hành nghề lâu năm đều giảm tốc độ, chạy xe hết sức thận trọng và không quên bóp 3 tiếng còi “ xin ” oan hồn đừng xô tay lái. Tuy vậy, thỉnh thoảng một vài chiếc xe gắn máy vẫn cứ đâm vào nhau.
Chết trong tai nạn giao thông xe cộ là cái chết dữ vì có khi đầu nơi này mà thân hoặc chân tay nơi kia (như bị phanh thây) cùng máu me bê bết trên đường hoặc thấm đỏ vào quần áo rách nát… làm ai trông thấy (dân địa phương) cũng phải kinh hãi. Chính vì mục kích thấy thi thể nạn nhân ở nơi có tai nạn mà dân địa phương mỗi khi có công việc phải đi ngang qua chỗ có miếu thờ đó (đi ban đêm) họ đều sợ… nhất là ở những chỗ miếu đã từng có hiện tượng ma, quỷ hiện ra nhát người.
Tai nạn giao thông làm nhiều người chết như các vụ xe đò (chở đông hàng khách) đụng đầu nhau. Có nạn nhân hôn mê cả một hai ngày nằm trong bệnh viện thì họ mới tỉnh lại. Tỉnh rồi, khi hoàn hồn, họ kể trong lúc tai nạn xẩy ra, tai nghe rõ tiếng người gọi nhau… xô ngã xe để dẫn đến tai nạn. Người nghe thì bảo là chuyện hoang đường, mất vía nên ám ảnh mà nghĩ ra như vậy.
Cũng anh Đinh V, người kể câu chuyện trên đây cho PTV nghe thì anh còn cho biết hồi còn ở trong nước, có lần tham dự một chuyến vượt biên mà không thành. Giữa khuya, anh phải rời khỏi căn nhà trọ (của đám tổ chức) để ra đường cái chờ trời sáng mà đón xe về lại Sài Gòn. Đoạn đường cái anh đi gần Bà Rịa nhưng anh không dám vào bến xe vì sợ bị bắt (kinh nghiệm dân vượt biên thường bị bắt ngay vì bộ dạng thành phố không qua mắt công an trong bến xe). Anh cứ đi bộ như vậy cho đến khi vừa đi ngang qua một cái miếu nhỏ (nằm sát cạnh bên vệ đường) thì chợt nghe có tiếng máy xe chạy đến. Anh đứng ngay lại (bên vệ đường) hướng mặt về chỗ có tiếng xe, mong đó là chiếc xe đò chuyến sớm nhất để đón nó. Xe chạy đến nhưng không phải là xe đò mà là một chiếc xe hai bánh. Anh Đinh V chưa kịp định làm gì thì chiếc xe chợt thắng gấp cùng với tiếng hét của tài xế. Rồi người chạy xe hai bánh đó vất ngay cái xe và bỏ chạy về hướng cũ. Anh Đinh V ngạc nhiên không hiểu hành động của người đó. Rồi khi nhớ lại bản thân đang mặc trên người cái áo cũ có mầu đỏ thì biết là người lái xe hai bánh đã nghĩ anh là oan hồn của người được thờ trong cái miếu mà anh vừa đi ngang qua.
– Mình không phải là ma rồi… nhưng chắc chắn sáng ngày hôm sau thì cái người chạy xe hai bánh đó (có lẽ là đàn bà qua âm thanh của tiếng hét) sẽ quả quyết đã gặp ma áo đỏ đứng bên vệ đường cho các người khác nghe. Anh Đinh V kết thúc lời kể.
8. Lời Tiên Tri Của Người Nửa Tỉnh Nửa Điên
Chuyện này có từ trước ngày Việt Cộng chiếm miền Nam VNCH (30-4-1975), xẩy ra tại khu vực Thành Quan Năm-Hốc Môn, ngoại ô Sài Gòn. Có một anh chàng tướng người nhỏ con, tính khí lúc tỉnh lúc điên (khi đó anh ta tuổi chắc trên 20, 30…) thường đi đây đó trong khu vực. Người sống ở địa phương gọi tên anh ta là Tân Khùng. Anh là dân tị nạn chiến tranh từ quận Đồng Xoài-tỉnh Phước Long dạt về đây (chung với đám nạn nhân chiến cuộc) và sống trong chùa Hoằng Pháp. Sư cụ chùa Hoằng Pháp khi đó cho xây một loạt những dãy nhà nhỏ lợp tôn để làm chỗ ở cho dân tản cư chiến cuộc này. Anh Tân Khùng đến ở một thời gian ngắn thì bỏ ra bên ngoài chùa, sống lang thang ngoài đường và tối thì mò vào trong chợ Thành Quan Năm ngủ. Cũng giống như các người dở khùng dở điên khác, anh cứ đi lang thang trên đường kể cả khi trời đang mưa hay nắng nóng, ai cho gì thì anh ăn nấy… có khi còn phải nhịn đói nhịn khát nữa (vì chẳng ai biết mà anh cũng không nói ra). Tóc tai, y phục thì thôi, anh chẳng màng tới (người dở khùng mà). Ai thấy quần áo anh Tân Khùng mặc quá rách nát thì kéo vào nhà và thay cho anh bộ cánh khác. Tóc anh dài thì có người kêu ông thợ hớt tóc dạo cắt dùm cho. Thấy anh hôi hám, bẩn thỉu thì gọi anh vào giếng sau nhà rồi tắm cho hoặc để anh tự dội nước lên người và quần áo mặc ướt đến khô dần dần. Được cái là anh biết nghe lời, ai bảo gì thì anh làm theo (như thay quần áo, tắm rửa, ngồi yên cho thợ ngôi hớt tóc… thôi nhưng nếu nhờ anh ta làm phụ việc gì đó thì không được, vì anh bỏ đi ngay). Lúc đầu thì cảnh sát VNCH ở vùng Hốc Môn nghĩ anh Tân Khùng có thể là Việt Cộng giả dạng nên có bắt nhốt để kiểm tra. Sau dò hỏi từ những người tản cư từ Đồng Xoài về thì biết anh chàng này là người dở tỉnh dở điên thật nên họ thả. Cảnh sát có làm cho anh một thẻ căn cước bọc nhựa và đưa anh về lại trong chùa Hoằng Pháp ở thì chỉ ngày hôm sau là anh lại bỏ đi lang thang bên ngoài đường như cũ. Cái thẻ căn cước đó (ở phần ghi tên tuổi) thì chỉ vọn vẹn hai chữ Tân Khùng thôi mà anh cứ vất bỏ mãi nên sư cụ phải nhờ người khác giữ giùm.
Ở gần chợ Thành Quan Năm có một tiệm bán nước đá cây, bia lade con cọp, bia 33 và nước ngọt thì có lần anh Tân Khùng này đến ngay trước tiệm rồi ngồi ở gần bên hồ xi măng (chỗ chủ tiệm để đá cây lẫn trong đống vỏ trấu giữ lạnh cho đá) và bốc các mảnh đá vụn để ăn. Do anh khát nước nên mới làm vậy và rồi thì có một người lính nhẩy dù đến mua nguyên một két bia 33 mang về. Anh lính này là người có nhà gần đó và thân quen với bà chủ tiệm nên mua thiếu để nhậu tiếp với bạn bè (vì hết tiền lương) và hứa lần về phép tới sẽ đến tận tiệm hoàn tiền mua chịu này. Khi anh lính vác két bia 33 đi rồi thì tự dưng anh Tân Khùng nói với chủ tiệm: ” Má bán cho nó lần tới về phép, nó không lại đây đâu “. Chỉ trong tháng sau thì có tin anh chàng lính nhẩy dù đó tử trận và xe đơn vị mang xác về nhà để thân nhân mai táng. Bà chủ tiệm nhớ lời nói của anh Tân Khùng nên đâm sợ và không dám đến nói với chủ nhà hiếu (của anh lính nhẩy dù) về số tiền bia 33, coi như bỏ.
Vài người cả nam lẫn nữ biết chuyện anh Tân Khùng tiên tri (trong vụ anh lính nhẩy dù) nên kéo anh về nhà cho ăn cơm (có cả bà chủ tiệm kể trên) rồi hỏi anh xem coi thấy họ (và cả chồng, con nữa) có… bị cái gì không? Nói cho họ biết để họ phòng ngừa. Lần nào thì anh Tân Khùng chỉ ăn no rồi đứng dậy bỏ đi ngay hoặc nằm lăn ra ngủ tại chỗ mà chẳng tiên tri điều gì cả. Hỏi anh, lay vai lay tay anh để dục anh nói thì anh chỉ nhăn miệng cười. Những người đó lúc đầu thì cũng bực mình vì cho anh ta ăn mà không chịu nói (tiên tri). Sau, có một ông già nghe chuyện mới bảo họ:
– Nó không nói gì thì mấy người phải mừng chứ… lại còn đi trách móc nó hoài. Cứ ăn ở hiền lành đi thì sẽ tránh được tai nạn.
Nghe ông già này nói vậy thì những người đó mới thôi. Có lẽ họ cũng đồng ý với lời của ông già vì cho chắc bản thân họ và người thân không bị chuyện gì nên anh Tân Khùng mới yên lặng.
Có lẽ chỉ có ai sắp sửa bị tai ương gì đó mà gặp anh Tân Khùng thì anh mới nói ra nhưng cũng chính vì vậy mà có khi anh ta bị đòn oan như lần anh đến ngay bên nhà ông X ở vùng Đồng Mả (gọi như vậy do khu vực này thời trước nguyên là mồ mả hoang vu sau vì dân tị nạn chiến tranh từ vùng Đồng Xoài, miền Trung tản cư đến cất nhà ở) có xe tải chạy chở hàng chuyến đường dài. Hôm đó ông X đang đốt bỏ ít rác rưởi trong sân nhà (lá cây, gốc củi mục , các mảnh vỏ xe hơi hư…) thì anh Tân Khùng đi ngang qua rồi anh nhìn vào nhà ông X, vỗ tay nói lớn: ” Nhà cháy… nhà cháy to quá “. Ông X nghe vậy liền nổi xung thiên mới chạy ra, đấm đá anh Tân Khùng nhưng may có người đi ngang cản lại. Anh Tân Khùng đi rồi thì có người biết chuyện (tiên tri về anh lính nhẩy dù) đến bảo cho ông X biết thì ông đâm sợ và vào chùa Giác Nguyên gần đó xin gặp sư trụ trì để trình sự việc. Không biết sư trụ trì giảng giải làm sao mà ông X này khi về liền mua đồ bày thành mâm cúng trong sân nhà. Thực ra thì mỗi dịp lễ Tết hay có chuyến chạy hàng xa (ra tận miền Trung, xuống miền Tây) thì ông X này đều lập bàn cúng kiến trước cái xe vận tải của mình. Ông X cúng trong sân nhà có lẽ để mong tránh được tai nạn cháy nhà (nghe thấy anh Tân Khùng nói) nhưng rồi dù đề phòng thì một buổi tối, nhà ông bị cháy thật. Do bị cúp điện đột ngột nên mấy đứa con ông X thắp đèn dầu ăn cơm và vì thấy bầu đèn cạn dầu cần châm thêm nhưng lại lấy lộn bình xăng mà mang họa. May là nhà có phòng bị trước, do ông X thủ được cái bình đỏ chữa cháy nên dập tắt ngay được ngọn lửa. Chỉ có đứa con gái châm thêm dầu hôm đó bị phỏng thôi, nhưng nhẹ.
Mấy người ở chợ Thành Quan Năm biết chuyện anh Tân Khùng tiên tri nhưng họ bảo hễ anh có nói thì họ mới biết mà tránh như vụ của ông Tư Tê, chủ lò đường Thuận Hiệp. Còn không thì đành chịu. Ông Tư Tê mỗi lần thấy anh Tân Khùng đi ngang qua lò đường thì lại gọi anh vào cho ăn cơm. Anh ăn no bụng rồi thì muốn lấy mía, lấy đường để ăn thêm cho vui thì tùy ý. Ông Tư Tê kể có lần nó thấy tui dắt xe Honda ra định đi Sài Gòn thì một hai cản lại, bảo là: ” Tía ở nhà, không đi hôm nay được “. Mấy lần gặng hỏi tại sao thì nó bảo thêm: ” Có đứa nó đang rình xô Tía đó “. Tui nghe mà nghĩ là bọn giang hồ nó chận, xô ngã xe để cướp bọc tiền nên cũng sợ không dám đi. Anh Tân Khùng này chuyện với ai cũng chỉ kiểu nói trống không và có người thì anh gọi là Tía, Má hoặc con đó thằng đó mà bất kể tuổi tác của họ. Ông Tư Tê kể thêm chỉ khoảng nửa giờ đồng hồ sau đó thì cô con gái ông chạy xe về tới lò đường, gặp ông và kể là mới có một vụ đụng xe chết người gần ngả tư giếng nước (cách lò đường trên 1 km) mà nạn nhân từ vóc dáng cho đến bộ y phục (áo sọc ca rô, quần xanh đen) trông giống hệt ông Tư Tê. Ông nghe cô con gái nói mà hết hồn vía. Ông liền đi vòng vô bên trong lò đường định tìm anh Tân Khùng để hỏi thêm cho biết nhưng lại không thấy anh ta đâu (lò đường không có bờ tường bao chung quanh).
Cũng có người đã hỏi anh Tân Khùng buổi tối ngủ ở sạp bán hàng trong chợ (không có mùng) bộ không sợ muối cắn sao (cống rãnh, hố chứa nước nhỏ trong chợ đầy bọ lăng quăng nổi đen ngòm). Anh Tân Khùng bảo là đêm nào cũng có người đứng hầu bên và quạt cho anh ngủ nữa. Nghe anh nói vậy, họ cười thầm nhưng khi nhìn trên tay chân và cả mặt anh ta nữa đều không có dấu muỗi đốt nên chẳng biết anh nói thật hay không?
Khi đám Việt Cộng chiếm được miền Nam VNCH rồi thì anh Tân Khùng vẫn còn lang thang sống như vậy. Không hiểu chính sách Hộ Khẩu của đám Việt Cộng có để ý đến những người hành khất, vô gia cư… như dạng của anh Tân Khùng (vì thời gian này và ngay cả ở thành phố Sài Gòn, người dân từ vùng kinh tế mới trốn về sống đầy ở các chợ, nghĩa địa, vỉa hè cùng trong các bãi đất trống). Anh Tân Khùng bây giờ cũng đã bước vào tuổi già nên người ta có gặp, đã gọi bằng ông Tân Khùng (hay ông khùng, ông già điên). Ông Tân Khùng nói năng càng tệ hơn trước. Mỗi khi ông nói, âm thanh cứ va vấp vào nhau không thành chữ nên có người lại gọi ông là Già Khùng Cà Lăm.
Hết chiến tranh thì những vùng đất hoang ở ngoại thành (như vùng Nhị Xuân, Tam Tân, Thái Mỹ, Lê Minh Xuân, Đồng Chó Ngáp…) cần bàn tay người canh tác nên một lãnh tụ Việt Cộng tên là Võ Văn Kiệt cho thành lập lực lượng Thanh Niên Xung Phong cùng các nông trường ở những vùng đất hoang đó. Có người thì bảo do muốn tranh dành ảnh hưởng trong nội bộ đảng mà gã Võ Văn Kiệt lập ra lực lượng này để hậu thuẫn cho bản thân y. Con em chế độ cũ miền Nam VNCH bị đưa gia nhập vào Thanh Niên Xung Phong rất nhiều. Chỉ có người thuộc chế độ Việt Cộng mới được làm cán bộ trong lực lượng này.
Một ngày cuối năm 1977 có một chiếc xe Jeep của Thanh Niên Xung Phong ghé lại bên một quán nước mía bên vệ đường gần ngã ba Lam Sơn (cũng thuộc khu vực Thành Quan Năm). Chiếc xe Jeep này là xe chở hàng tiếp liệu của Thanh niên Xung Phong cho nông trường Thống Nhất ở huyện Củ Chi trên hướng đi lên Tây Ninh. Xe Jeep này có kéo theo cái rờ moọc đằng sau chất đầy gạo, rau trái, thịt, đường, bột… cung cấp cho đơn vị (thuộc tổng đội 4 Thanh Niên Xung Phong). Đi trong xe là 4 cán bộ Thanh Niên Xung Phong còn trẻ. Họ ghé quán uống nước mía giải khát và nghỉ ngơi chốc lát. Khi họ đang uống nước mía thì ông Tân Khùng ở đâu tà tà đi tới và ông ngừng lại ngay bên chiếc xe Jeep rồi đi vòng quanh nó. Ông ngó kỹ chiếc xe rồi có lúc còn ngồi xuống nhìn vào gầm xe cùng cái rờ moọc kéo đằng sau nữa. Một gã cán bộ Thanh Niên Xung Phong ngồi trong quán nước thấy hành động cùng bộ dạng của ông Tân Khùng thì nói vọng ra: ” Ê! Ông già kia! Làm cái gì mà xớ rớ đứng bên xe vậy. Định lấy cái gì đó? Cút đi đi “. Không biết ông Tân Khùng có nghe thấy những lời nói đó không mà ông ta lại còn lấy tay nắm vào thành cái rờ moọc lắc qua lắc lại và miệng thì lẩm bẩm độc thoại. Mấy cán bộ Thanh Niên Xung Phong thấy vậy liền kéo nhau ra vây chung quanh ông Tân Khùng rồi sừng sộ: ” Bỏ tay ra ngay. Ông mà cầm cái gì ở trong xe là tụi này chơi đẹp đó. Không tha ông đâu… Đi đi… “. Ông Tân Khùng bỏ tay ra khỏi thành cái rờ moọc và lắp bắp từng chữ: ” Cứng… cứng… chắc… vầy… mà… lật…. được… Ha ha “. Ông còn nói tiếp vài câu gì nữa rồi mới lừ đừ đi mất. Bà chủ tiệm nước mía biết chuyện của ông Tân Khùng nên thấy vậy, mới chạy ra hỏi các tay cán bộ Thanh Niên Xung Phong:
– Ông già nói cái gì với mấy chú vậy? Ông điên nhưng miệng ổng linh lắm đó.
– Ông ta nói cái gì xe lật rồi ai chết đó mà… tụi tui chả hiểu. Còn đứng đây lải nhải tụi tui oánh thấy bà… Điên hả? Điên thì oánh theo điên. Một người trong số họ trả lời.
Bà chủ tiệm nước mía há hốc mồm chưa kịp nói thì gã cán bộ chỉ huy bảo:
– Thôi mình lên xe đi các đồng chí… Tới giờ rồi, đừng chần chừ nữa.
Bốn cán bộ Thanh Niên Xung Phong trèo ngồi gọn trong lòng chiếc xe Jeep. Hàng hóa quá nhiều nên họ còn phải ôm trên người mới gọn. Xe chạy nhưng chỉ một lát sau thì bà chủ tiệm nước mía nghe tin một chiếc xe Jeep lùn có kéo theo cái rờ moọc bị lật úp ở gần chợ Thành Quan Năm. Chiếc xe bị lật vì thắng gấp để tránh một con bò chạy băng ngang đường lộ và vì chở nặng, cái rờ moọc đằng sau đã quay ngang, kéo lật chiếc Jeep chổng bốn bánh lên trời rồi bốc cháy dữ dội (do các can xăng để trong lòng xe đổ ra gặp lửa từ ma sát của sắt thành xe với mặt đường lộ). Bốn người bị mắc kẹt trong lòng xe Jeep nên không thể bò ra ngay được. Họ cố sức thoát thân và người dân hai bên đường nhào đến, chung sức lật ngửa chiếc xe Jeep lại (để cứu 4 người này) nhưng đành phải bỏ cuộc vì đuôi xe còn vướng nguyên cả cái rờ moọc đầy ắp hàng hóa. Rồi ngọn lửa bùng lên dữ dội làm người dân phải chạy ra xa khỏi xe. Những người chứng kiến thấy cảnh các nạn nhân vùng vẫy thê thảm trong ngọn lửa mà đành bất lực. Khi ngọn lửa tàn, 4 thi thể người (có chỗ cháy đến tận xương như sọ, cùi chỏ, đầu gối) trơ ra chung với chiếc khung xe Jeep. Chiếc rờ moọc kéo đằng sau xe Jeep cũng bị lật úp. Gạo, rau, thịt… vương vãi đầy trên đường.
Vài năm sau thì không ai thấy ông Tân Khùng ở khu vực chợ Thành Quan Năm nữa. Có người bảo là bà con ông ta ở vùng Đồng Xoài đã tìm đến và đưa ông về sống chung tại một khu giãn dân hoặc vùng kinh tế mới nào đó ở Lộc Ninh.
Khi ta thấy những người có vẻ tỉnh tỉnh điên điên thì đừng coi thường họ. Không nên đánh giá con người ở bộ dạng bên ngoài dù người đó ăn mặc bẩn thỉu hoặc sạch sẽ thơm tho.
Ông Tân Khùng (cũng như cậu Ư trong câu chuyện Kho Vàng Trong Núi mà PTV kể ở một lần trước) là dạng người có vẻ bề ngoài khờ khạo, chậm hiểu tuy hiền lành và ta vẫn thường thấy ở bất cứ quốc gia nào, thời nào… cũng có những người như vậy. Có người khi mẹ sinh ra đã bị tình trạng này rồi và họ cứ sống vật vờ như vậy cho đến chết (người ta bảo là họ gánh nghiệp từ kiếp trước). Khi còn thân nhân (cha mẹ, anh chị) thì còn có người chăm sóc cho chứ rủi nếu họ mồ côi (hay với thời gian mà các thân nhân khuất bóng trước cả rồi) thì cuộc mưu sinh của họ sẽ vất vả lắm. Nhưng có người lại bảo với PTV là những người tỉnh tỉnh-điên điên này chẳng biết đau khổ (hay lục dục)… gì đâu. Chỉ có thân nhân của họ thôi (đau khổ giùm). Nghe mà chỉ biết chép miệng.
Như ông Tân Khùng, cũng có những người trong số dở tỉnh dở điên này tự dưng trời ban cho họ có khả năng tiên tri và điều họ buột miệng nói ra thì lại trúng phóc sau đó không lâu. Họ bình thường lò dò sống gần bên ta trong khu phố, gặp ta ở trên đường… Có khi họ cười, hét hoặc lẩm bẩm nói ra vài câu mà chẳng ai hiểu. Nhưng khi họ nói với cá nhân nào đó một câu gì thật rõ ràng thì là một điều tiên tri về một việc sắp xẩy ra (cho người được họ nói đến đó). Nếu ai mà nghe được từ miệng người dở tỉnh dở điên nói về điều sắp xẩy ra cho bản thân (tiên tri) và nhờ vậy mà người đấy tránh được (tai nạn) thì chắc chắn người thoát nạn này sẽ mang ơn người dở tỉnh dở điên đó suốt đời.
Những người dở khùng mà có tài tiên tri như vậy thì có bao giờ họ… tiên tri việc đời của họ cho người khác biết không? Có người đã hỏi như vậy và thực sự là có như ở trường hợp anh chàng tên Robert Nixon (sinh năm 1467) bên làng quê Cheshire của nước Anh.
Anh Nixon này cũng có vẻ bề ngoài khờ khạo, tưng tửng, ít nói, chăm chỉ làm việc (do người ta thuê) để kiếm miếng ăn hàng ngày. Có những lúc đi lang thang trên đường thì người dân làng Cheshire thấy anh lẩm bẩm độc thoại mà chẳng câu nào ra đầu ra đuôi. Cho đến một hôm khi đang cày ruộng thì đột nhiên anh Nixon ngừng lại, nhìn chung quanh rồi kêu lớn: ” Ê! Dick… Ê! Harry… Tụi mày đánh nhau nữa ha! Ô kìa! Dick mày đánh dở quá. Thôi rồi! Harry thắng rồi, thắng rồi… Ha ha “.
Những người nông dân làm việc gần sát bên anh ta, nghe rõ lời nhưng chẳng ai hiểu. Ai cũng nghĩ như mọi bận, người dở tỉnh dở điên khi lên cơn, nói năng tầm bậy vô nghĩa (thực sự là bố ai hiểu họ nói gì). Qua ngày hôm sau thì có chuyện là vua nước Anh (khi đó) là Richard III bị giết tại chiến trường Bosworth và người chiến thắng trong trận đánh đó là Henry Tudor. Cái chết đó xẩy ra cùng thời gian mà anh chàng Nixon buột miệng tiên tri (ngày 22 tháng 8 năm 1485). Henry Tudor lên ngôi và thành vua Henry VII của nước Anh. Ta biết trong Anh ngữ, Dick, Harry là tên gọi thân mật của Richard và Henry (cũng như Ben-Benjamin, Bob-Robert, Kathy-Kathleen…).
Chuyện tiên tri của anh Nixon thì sau đó đến tai ông vua Henry VII này (có người gọi là vua Henry Đệ Thất). Vua cho cận thần đến tận làng Cheshire đón anh về London (để hầu vua) nhưng trước khi đám cận thần này đến nơi thì anh chàng Nixon đó đã biết trước và sợ hãi chạy lung tung khắp nơi trong làng, kêu khóc… nói là vua bắt anh ta về triều đình sẽ bỏ đói cho chết. Anh không muốn đi gặp vua nhưng bảo là không tránh được… chỉ biết kêu khóc thôi. Rồi anh theo đám cận thần về London, khi vừa đến nơi thì vua Henry VII mới thử tài (tiên tri) của anh Nixon bằng cách lộ vẻ mặt lo lắng và nói là mình mới làm mất một viên kim cương. Vua muốn anh Nixon tìm giúp xem nó đang ở đâu. Anh Nixon trả lời: ” Tâu bệ hạ. Bệ hạ cần chi phải tìm cho mất công vì đã biết chỗ của nó “. Vua Henry VII thán phục vì chính ông đã dấu viên kim cương này. Từ đó vua giữ anh Nixon trong triều, chăm sóc anh ta chu đáo và cắt người (lúc nào cũng theo sát bên cạnh) ghi chép những lời anh nói. Những điều anh tiên tri đều đúng và vua rất yêu mến anh ta, lo cho anh ta thật chu đáo. Chính vì vậy mà điều anh tiên tri cho bản thân trước lúc rời khỏi ngôi làng Cheshire (vua bắt anh mang về triều để bỏ đói cho chết) coi bộ khó xẩy ra. Vua Henry VII cũng biết điều tiên tri về cái chết của anh Nixon đó nên ra lệnh cho đầu bếp trong cung điện phải cho anh ta ăn uống bất cứ lúc nào, bất cứ món ăn gì anh thích. Vô tình, lệnh của vua đã làm những người phục dịch trong cung rất thù ghét anh Nixon.
Cho đến một ngày khi vì công vụ quốc gia, vua Henry VII phải rời khỏi kinh thành London thì trước khi lên đường, đã bí mật giao anh Nixon cho một viên quan săn sóc riêng. Lý do là vì anh Nixon khóc lóc nói là khi vua về lại kinh thành thì anh ta đã chết vì bị bỏ đói. Anh xin vua đừng đi nhưng không thể được. Khi vua Henry VII lên đường rồi thì viên quan này lại sợ có lúc nào do vắng mặt mình mà bọn phục dịch sẽ làm hại, chọc phá anh Nixon nên mới đem nhốt anh ta vào một phòng riêng trong cung điện (không cho ai biết chỗ) và tự giữ lấy chìa khóa cửa. Hàng ngày đích thân viên quan đó lo việc cơm nước cho anh Nixon và rồi do bị chết đột ngột (ngã ngựa) nên không ai biết gì về căn phòng có anh Nixon. Khi vua Henry VII hồi loan thì biết tin viên quan chết, ông cho lệnh lục soát kiếm anh Nixon và khi tìm ra căn phòng đó thì anh ta đã chết vì bị bỏ đói.
9. Xóm Nhà Giữa Rừng Hoang.
Câu chuyện này xẩy ra vào quãng tháng 7, 8 năm 1978 tại một vùng rừng thuộc chiến khu D căn cứ cũ của Việt Cộng. Đầu năm 1977 thì gia đình Phạm Thắng Vũ (PTV) phải đi vùng kinh tế mới ở Rừng Lá (căn cứ 3-căn cứ 4) gần núi Mây Tàu thuộc tỉnh Bình Tuy cũ. Mùa mưa xuống (tháng 4, 5) rồi vì việc trồng trỉa lúa bắp khoai xong xuôi thì do rảnh rỗi nên bản thân mới đi lên vùng rừng huyện Vĩnh Cửu (nơi sau này là khu vực thủy điện Trị An) chung với gia đình các thân nhân tại khu kinh tế mới ở đây để theo họ vào rừng kiếm mủ cây Trai về bán kiếm tiền. Kinh tế mới là tên gọi chung của một chương trình dãn dân mà nhà nước mới buộc dân thuộc chế độ VNCH phải bỏ nhà cửa (hiến không cho cán bộ) hay bán rẻ cho người khác ở Sài Gòn để đến các vùng rừng núi (căn cứ địa cũ của Việt Cộng) để sống (tự phá đất, cất nhà, trồng trỉa lấy…). Mủ cây Trai là nhựa lỏng chảy ra từ cây này khi cây bị thương (do dao chặt, vết bom… ) mà thành. Nhựa mầu vàng óng, từ vết nứt ở cây nhểu xuống đất đóng vón thành từng cục rồi lâu ngày đổi sang mầu vôi trắng, mốc xanh bên ngoài và người đi thu nhặt mang về bán cho dân buôn nấu chảy lỏng ra dùng để trét vỏ ghe thuyền cùng các vật dụng đan lát khác như gầu múc nước, nón lá…
Nhóm của PTV nhập chung băng với dân vùng kinh tế mới ở huyện Vĩnh Cửu này (đa số họ gốc là binh sĩ thuộc sư đoàn 25 Bộ binh VNCH), vượt qua sông Đồng Nai rồi đi theo con đường lộ chính đất đỏ giữa chiến khu D cho đến chỗ đóng trại ở sát bên rừng và gần một con suối (tự thân cả nhóm chọn lấy địa điểm thuận lợi). Cứ 2, 3 người (hoặc 1 gia đình) thì ở trong một căn lều. Bếp nhóm nào thì làm lấy mà dùng và tự nấu thức ăn mang theo khi đi vào rừng nhặt mủ cây Trai. Khi đó, lúc nào cũng có vài nhóm người đi kiếm mủ cây Trai ở vùng rừng núi này. Cứ sáng sớm, mỗi nhóm do 1 người dẫn đường gốc lính chiến biết cách dùng địa bàn chỉ huy cả bọn theo nhau dàn hàng ngang vào rừng, nhắm các thân cây lớn trước mặt để kiếm mủ cây Trai (còn vón cục trên thân, cành hay nằm sẵn dưới đất). Trại thì do ít thân nhân ở lại để trông chừng đồ đạc. Ai kiếm được mủ nhiều ít thì hưởng nấy (không chia) và đi chung cho đến trưa thì nghỉ tạm một chỗ để ăn uống rồi tiếp tục công việc cho đến xế chiều thì cả nhóm sẽ quay về. Mủ cây Trai kiếm được, dân buôn mua ngay tại chỗ. Dân buôn có lều gom hàng ở gần bên và tùy người kiếm được nhiều hoặc ít hoặc mủ tốt (ròng) hay xấu (lẫn đất, lá…) mà thu nhập có khác. Cứ hôm nay đi kiếm ở cánh rừng hướng này thì ngày mai lại phải đi xa hơn hoặc đổi sang hướng mới khác. Thông thường cứ một lần đóng trại như vậy là một tuần lễ rồi sau đó về nhà nghỉ vài ngày để đưa tiền cho thân nhân và chuẩn bị thực phẩm rồi lại đi tiếp chuyến mới.
Một lần, cả nhóm PTV mới vào rừng được khoảng nửa tiếng đồng hồ thì ông Lý và đứa con trai (khoảng 12, 13 tuổi) bắt gặp cả một đống mủ dưới một gốc cây Trai cổ thụ. Đống mủ này, có những cục khá lớn và ước lượng tất cả trên 50 kg. Hai cha con ông chia nhau mỗi người một nửa (bỏ trong bao nylon đeo trên lưng) và vì thấy mới vào trong rừng không lâu nên ngỏ ý với cả nhóm xin được về trại trước. Anh Q là người dẫn đường mới chỉ hướng đi cho hai cha con ông Lý rồi cả nhóm tiếp tục đi kiếm mủ cây Trai như thường ngày. Buổi chiều hôm đó, khi cả nhóm quay về chỗ đóng trại, gặp cô con gái của ông Lý (gia đình ông gồm ba cha con) thì mới biết hai cha con ông ta vẫn chưa về. Không thấy anh trai và bố mình, cô bé gái này (khoảng 8, 9 tuổi) lo lắm… rồi theo hỏi từng người mà cả nhóm chẳng biết lý do tại sao? Đêm trôi qua rồi ngày mới bắt đầu, cả nhóm PTV lại tiếp tục đi kiếm mủ cây Trai và cho đến buổi chiều khi quay về chỗ trại lại nghe tin hai cha con ông Lý vẫn chưa về. Giờ đây, cô bé gái con ông Lý khóc vùi, van nài cả nhóm đi kiếm cha con ông Lý… nhưng không thể được. Ai có biết hai cha con ông Lý ở chỗ nào trong rừng? Tuy không nói ra nhưng ai nấy đều mong hai cha con ông đừng gặp cọp hay thú dữ. Anh Q bảo là nếu ngày mai mà vẫn chưa thấy hai cha con ông Lý thì cả nhóm sẽ nhổ trại, kéo về để cấp báo cho gia đình ông ta biết tin.
Ngày hôm sau nữa, cả nhóm PTV lại tiếp tục công việc như thường lệ và cho đến buổi chiều khi quay về chỗ đóng trại thì biết tin hai cha con ông Lý đã về lúc quá trưa rồi. Và, gia đình ông thu dọn đồ lề, kéo về nhà ngay lập tức. Về nhà rồi những ngày sau đó thì hai cha con ông Lý bỏ ngang không đi nhặt mủ cây Trai như trước nữa. Hỏi nguyên do thì ông Lý chỉ ậm ừ bảo vì không có địa bàn sợ sẽ đi lạc và thấy việc lần mò trong rừng kiếm mủ cây Trai vất vả quá nên đã bỏ. Riêng thằng con trai ông (tên Thuyết) thì lần lần nó kể.
Sau khi vừa chia tay với cả nhóm PTV thì tưởng chỉ độ non một tiếng đồng hồ là cả hai cha con ông Lý sẽ ra khỏi rừng. Nào ngờ mới lò dò đi không lâu thì bất thần có một cây mưa rừng ập đến rồi khi tan cơn mưa thì chẳng biết đâu là phương hướng nữa vì trời mù mịt cho đến khi sâm sẩm tối thì hai cha con phải trèo lên cây để ngủ (phòng thú dữ). Đêm đầu tiên phải ngủ giữa rừng thì cha con ông Lý chưa thấy gì. Suốt cả ngày hôm sau thì cả hai cha con ông Lý vẫn loay hoay mà không tìm được dấu vết (đường mòn cũ) để có thể lần theo đó mà ra được rừng. Đêm thứ hai thì giữa khuya, cả hai cha con ông Lý chợt tỉnh giấc khi nghe có tiếng hú, tiếng gọi tên mình nữa. Ngày hôm sau, hai cha con ông Lý quyết định vất bỏ hết tất cả số mủ cây Trai nhặt được. Có lẽ do hai cha con không thể mang nặng được nữa. Rồi hai cha con cứ lầm lũi tìm đường ra khỏi khu rừng mà mãi không được. Đi như vậy cho đến tối họ lại phải ngủ trên cây như hai đêm trước. Giữa khuya thì hai cha con ông Lý nghe có tiếng người lao xao nói chuyện vọng đến từ một chỗ nào đó không xa lắm. Trong tiếng nói có nghe cả tiếng đàn vọng cổ nữa. Rồi khi trời có trăng, hai cha con ông Lý thấy một ánh đèn dầu lấp lánh xa xa nên vội trèo xuống và lần mò đi đến. Thấy rõ ràng vài căn nhà tranh với ánh đèn vàng vọt trước mắt nhưng cứ vậy mà họ vẫn không thể đến tận bên được. Biết gặp ma rừng nên hai cha con ông Lý bỏ đi ra hướng khác rồi ôm nhau ngủ giữa một bãi đất trống cho đến khi trời sáng. Sáng hôm sau, tiếp tục đi nữa thì hai cha con ông Lý nghe được tiếng cưa cây cùng người nói chuyện rồi theo đó, gặp được nhóm thợ rừng. Gặp thợ rừng và quá giang theo xe ben của họ mà hai cha con ra tới được con đường lộ chính đất đỏ. Tới đường lộ chính thì hai cha con ông Lý mới biết họ cách chỗ đóng trại cả gần chục cây số đường tuốt về hướng đi lên tỉnh Phước Long.
Nghe chuyện thằng Thuyết kể thì có người sống tại vùng kinh tế mới huyện Vĩnh Cửu bảo xóm nhà đó là một trong các mật khu của bọn Việt Cộng ngày trước ở vùng chiến khu D này. Người kỳ cựu, sống lâu hơn thì nói xóm nhà cha con ông Lý kể đó có thật. Nguyên là sào huyệt của nhóm thảo khấu từ thời còn thực dân Pháp cai trị. Bọn thảo khấu sau các chuyến ăn hàng (cướp của) ở Biên Hòa, Sài Gòn-Chợ Lớn… thì chúng về đây ẩn náu cho đến khi bị lộ và bị cảnh sát-mã tà thời đó truy lùng đến tận nơi rồi giết sạch hết cả bọn.
Có người thợ rừng thì kể đã từng gặp xóm nhà trong chuyện kể của hai cha con ông Lý và thêm, chỗ đó nay chỉ còn các cột gỗ chung với các cây rừng mọc lấn ngay trên nền nhà cũ./.
10. Thần Vòng.
Vòng đây là tên gọi sợi dây thừng mà người ta dùng để xử tử tội nhân (giảo hình). Đó là những người phạm tội và theo luật (xã hội, thời điểm) thì phải bị thắt cổ chết. Thường thì người ta làm một cái giá hay một cái sàn cao bằng gỗ trên có treo một sợi dây đã nút sẵn thòng lọng. Khi thụ hình, tội nhân bị tròng đầu vào thòng lọng và đao phủ (người thực hành vụ án) sẽ kéo một cái chốt để sàn gỗ dưới chân tử tội sụp xuống, làm tội nhân phải treo lơ lửng rồi sẽ chết vì ngạt thở (thòng lọng xiết chặt vào cổ). Đó là những người phạm tội và phải chết vì giảo hình (gần đây thì có vụ xử treo cổ nhà độc tài nước Iraq là Sadam Husein). Cũng có những người tự mình tìm đến cái chết ghê rợn này mà dân gian thường bảo do nghiệp bị thần vòng ám khiến cho phải chết. Mỗi khi nói đến thần vòng thì ai cũng nghĩ đến hình ảnh một sợi dây thòng lọng treo lủng lẳng một thân người ở cành cây nào đó ở cạnh đường đi, trong rừng…
Khoảng tuổi thiếu niên, một buổi trưa thì PTV nghe dân trong khu phố gọi nhau đi xem người thắt cổ chết. PTV theo chân họ đến một căn nhà có rất đông người vây chung quanh (trước cửa chính, cửa sổ). PTV chen mãi mới vào phía bên trong vòng người được thì thấy một người đàn ông treo đứng bằng sợi dây thừng giữa căn phòng khách. Hai ngón cái bàn chân ông này chạm đất và do quay mặt vào phía trong nên không rõ khuôn mặt ông ta như thể nào? Người người cứ chen nhau vào xem như vậy (chỉ thấy phía lưng người chết) và chẳng có ai dám vào trong căn phòng đó. Khi hai người cảnh sát (nhân viên công lực) xuất hiện thì họ vào trong căn phòng, đến bên cạnh người chết (rồi chắc do kiểm tra xem người này có thật đã chết hay chưa) và xoay cái thân ông ta ra phía bên ngoài. Vừa thấy mặt người chết đó thì gần như tất cả người đang đứng xem đều kêu thét lên một tiếng thật lớn rồi tranh nhau mà chạy ra ngoài. PTV cũng chạy y như họ (có những người ngồi bệt tại chỗ vì quá sợ mà cuồng cả chân). Chạy ra xa rồi (vẫn không chịu về nhà ngay) PTV còn nán lại xem cho đến khi cảnh sát hạ xác người này xuống rồi khiêng ông ta (trên cáng) lên xe để chở đi khám nghiệm mà vẫn chưa hoàn hồn. Khuôn mặt người thắt cổ này phù to, nghiêng đầu một bên và tuy nhắm mắt nhưng cái lưỡi ông ta (có mầu tái xanh) thè dài ra ngoài… thật khiếp.
Căn nhà có người thắt cổ đó không ai dám ở cho mãi đến sau ngày 30-4-1975 thì chủ gia trước khi hồi hương (vì là dân tản cư chiến cuộc ) đã bán rẻ cho dân buôn để gỡ tole, gỗ, ván mang đi. Chỉ còn trơ lại cái nền xi măng bỏ hoang như vậy mãi. Sau, người ta mua đi bán lại miếng nền nhà này rồi làm vườn rau cho đến khi nhà nước Việt Cộng mở rộng đường thì thành một phần của quốc lộ 22 bây giờ.
Ở tuổi thiếu niên, PTV vẫn nhớ ở gần nhà có gia đình bán thuốc tây (dược phẩm) có mấy người con trai gái trạc bằng tuổi mình. Một buổi, bà vợ ông chủ hiệu thuốc tây này nọc đánh hai cậu con trai trong nhà một trận vì lý do (cả hai) đã chơi trò… làm người thắt cổ chết. Hỏi thì hai cậu con trai đã lấy một sợi dây rồi làm cái thòng lọng để đứa này thắt cổ cho đứa kia giả chết. PTV có hỏi mấy người lớn (cô, chị họ…) thì ai cũng bảo chớ có làm trò đùa giỡn như vậy vì sẽ bị thần vòng… ám. Mấy người bà con này bảo là những ai có chuyện buồn riêng mà thốt ra lời kiểu thắt cổ chết cho rồi thì cũng sẽ có ngày người đó bị thần vòng khiến cho phải chết thảm.
Cũng từ vụ có người thắt cổ mà PTV kể ở trên thì dân trong khu phố kể về một căn nhà có người thắt cổ khác. Từ chợ Thành Quan Năm khi đi ngược về hướng Sài Gòn thời trước khi gia đình PTV về vùng này cư trú thì có một khu nghĩa địa rất rộng mà người ta gọi là cánh đồng mả. Ở đây, từ xa xưa thì có những ngôi mộ cũ là các tảng đá ong đỏ và gần hơn là mộ xây bằng xi măng (lớn nhỏ) hay đơn giản chỉ còn là gò đất u cao… trải dài từ đường lộ cho đến các vạt rừng hoang, rừng cao su (dấu vết cũ của các công ty canh nông thời thực dân Pháp) rồi là ruộng, vườn của dân địa phương. Thời điểm dân di cư 1954, có một gia đình từ phương xa đến cất nhà gần rìa cánh đồng mả này (do đất trống vô chủ) để ở. Cũng chỉ là nếp nhà nhỏ lợp lá, vách ván gỗ thông thường. Hai vợ chồng này chưa có con cái gì. Người chồng làm tài xế cho một hãng xe đò tư chạy đường Sài Gòn-Hóc Môn, còn người vợ trồng rau (dọn đất chung quanh nhà) để mưu sinh qua ngày. Ở đây được độ gần năm thì người chồng bỏ nhà đi biệt tích (có người nói ông theo Việt Cộng, người thì bảo ông đã có gia đình mới), rồi không lâu sau đó thì người vợ thắt cổ chết trong nhà. Khi người dân sống trong khu vực phát giác thì xác người phụ nữ đó đã rữa hủy. Vì không có thân nhân nên sau cùng nhà chức trách cho chôn bà trong khu vực đồng mả. Căn nhà đó bỏ không vài năm đâm hư hỏng (xuống cấp) rồi bị người khác (dân tị nạn chiến cuộc) đến chiếm. Họ sửa lại căn nhà (lợp tole thay cho mái lá cùng sửa lại vách) nhưng cũng không ở lâu được đến phải bán rẻ. Người mua nhà cũng chẳng ở được bền (bảo nhà có ma) nên họ muốn bán mà không có khách rồi sau cùng đành để bảng cho thuê. Người thuê căn nhà này là một thày giáo dạy bậc tiểu học (cấp 1) của một trường tư nhân trong vùng Hóc Môn. Đến thời gian đó thì khu vực Thành Quan Năm cũng đã thay đổi khác xưa. Dân di cư kéo đến ở trong 3 xứ đạo Thiên Chúa rồi lập chợ (đặt tên là Nam Hưng). Rừng hoang, rừng cao su năm xưa bị dân di cư miền Bắc vào hợp với người Nam Bộ địa phương phá bỏ để thành các ấp chiến lược Nhị Tân, Tân Hiệp… nhưng ở khu vực đồng mả, đất vẫn còn hoang vắng. Căn nhà ông thày giáo đó thuê vẫn là nơi biệt lập, xa cách với các nhà dân khác (chung quanh nhà ngoài mồ mả thì là cây rừng, tre bụi cùng gò bãi nhấp nhô…).
Ông thày giáo đó (tên X) kể lại vì có chuyện buồn riêng nên tự nhiên có ý nghĩ… thắt cổ chết cho rồi. Ông ta lấy sợi dây thừng từ cái gầu kéo nước giếng bên cạnh nhà vào rồi làm thành một cái thòng lọng. Ông ta treo sợi dây thừng đó lên một cây rui (đòn tay nối với các cây cột cái) mái nhà rồi đi nấu cơm để ăn trước khi chết (không muốn thành ma đói). Đang nấu cơm ở bếp phía sau nhà thì vì vô tình khi nhìn lên đằng trước (căn nhà) mà ông ta thấy sợi dây thừng… rục rịch. Sợi dây thừng do ông thày giáo treo khá cao (ông để bên cạnh là cái ghế đẩu, định bụng sẽ trèo lên ghế rồi đút đầu vào) đã có lúc… thòng thấp xuống để nhìn. Quá sợ nên ông thày giáo tỉnh hồn, vội bỏ ra khỏi căn nhà (đi bằng cửa sau) và gọi hàng xóm đến giúp. Có khá đông người rồi thì họ vào căn phòng để gỡ bỏ sợi dây thừng đó xuống và đem đốt hủy đi. Ai nghe chuyện kể đều bảo vì ông thày giáo đó nấu bữa ăn quá lâu mà thoát nạn hoặc do phần số của ông không chết về tay thần vòng.
Căn nhà đó sau cũng bỏ hoang và hư hỏng dần cho đến dịp tết Mậu Thân 1968 thì tan hoang vì các lần giao tranh giữa binh sĩ miền Nam VNCH với đám du kích địa phương Việt Cộng.
Đầu thập niên 1980 thì PTV có một người bạn (lớn hơn mình cả gần chục tuổi) cũng là thày giáo bậc tiểu học (trước 30-4-1975) do buồn chán chuyện gia đình nên đã thắt cổ chết tại nhà. Ông này (tên là M) bị chính quyền Việt Cộng sa thải (làm thày giáo… mất dạy) mà cũng không kiếm ra được việc làm nào khác. Một buổi tối đi uống cà phê chung với bè bạn (có mặt cả PTV trong nhóm), ông than gia đình vợ con nheo nhóc mà bản thân như sống dựa vào vô ích (ăn bám) chắc phảithắt cổ chết cho rồi. Tưởng ông thày M này nói như để than thở với các bạn bè (hoàn cảnh khi đó ai cũng khổ sở không kém) trong tối uống cà phê hôm đó thôi. Nào ngờ, ít tháng sau thì PTV nghe tin ông ta thắt cổ chết trong phòng vệ sinh của nhà. Mấy đầu ngón chân của cái xác cũng vừa đụng đất thôi (như xác người thắt cổ năm xưa kể trên) mà vẫn làm ông thày M này chết thật.
Bên nước Nhật Bản, gần Phú Sĩ Sơn (núi Fuji), có một khu rừng tên là Aokigahara rất nổi tiếng (từ thập niên 1950 cho đến nay) vì quá nhiều người vào đó để tìm… chết. Khu rừng này rộng khoảng 14, 15 dặm (mile) vuông, đầy cây cối rậm rạp cùng hang động hoang vu. Những báo cáo như năm 2002 có 78 nạn nhân, năm 2003, cảnh sát đếm được 105 thi thể, năm 2004 thì 108 mạng. Đa số nạn nhân chọn cách chết bằng thòng lọng (thắt cổ) hoặc dùng thuốc quá liều. Cảnh sát đã đặt các biển chữ: Cuộc đời bạn là món quà quý của cha mẹ ban cho…Hãy tham khảo ý kiến với cảnh sát trước khi chọn cái chết… đây đó trong rừng Aokigahara này như một cách ngăn chận bớt người dân Nhật chán đời.
Dân Nhật thì bảo là khu rừng này đầy các oan hồn còn vất vưởng ở trần gian nên đã ám những người đặt chân vào và chọn cái chết (tự vẫn).
Hồi năm 1993 khi còn tạm dung tại trại tị nạn Galang bên nước Indonesia, PTV đã từng nghe một người bạn kể là ông ta có một cô em gái họ, cô em gái ông này khi mẹ sinh ra, trên cổ cô ta có một vệt da khác mầu… y như dấu vết của một sợi dây in vào (hoặc như người đeo một vòng nhỏ trên cổ khi đi tắm biển, phơi nắng mà thành dấu). Lớn lên thì vệt da này trên cổ cô em họ đó mờ dần nhưng để ý kỹ thì vẫn nhận ra được. Ông bạn đó cho cô em gái họ chắc từ kiếp trước đã từng là người thắt cổ (bị người ta thắt hay tự ý làm thì không ai trong gia đình biết). Cùng thời gian đó, trong trại tị nạn Galang có một thuyền nhân cựu quân nhân miền Nam VNCH thắt cổ tự vẫn chết trong rừng (do người này bị Cao Ủy Liên Hiệp Quốc về Người Tị Nạn đánh rớt thanh lọc, sẽ phải bị cưỡng bức hồi hương về lại Việt Nam) mà PTV có hỏi một ông cụ rất giỏi về khoa tử vi thì ông cụ bảo người đó chắc mang số chết về tay thần vòng khi đọc câu:” Liêm, Hỏa (mà gặp) Không, Kiếp, Phá Quân-Hãm cung, thắt cổ nợ trần hết duyên“.
11. Thày Mo Hết Thiêng.
Thời còn chế độ miền Nam Việt Nam Cộng Hòa thì mẹ của PTV có một số bà bạn buôn bán chung và hầu hết đều là dân di cư dịp 1954 từ miền Bắc vào. Có những lúc rảnh rỗi trong việc buôn bán thì các bà thường ngồi kể chuyện ngày xưa khi họ còn nhỏ. Một bà tên T kể câu chuyện đấu phép giữa một thày mo với một cha cố đạo Thiên Chúa ở trong làng của bà. Làng của bà thuộc vùng trung du miền Bắc thuộc tỉnh Quảng Yên. Lâu quá nên PTV cũng không nhớ chính xác tên địa phương của làng bà T kể… Chỉ biết bà bảo rất nhỏ, có núi đồi và sát cạnh biển. Truy trên bản đồ thì thấy Quảng Yên là tên cũ của tỉnh Quảng Ninh bây giờ và các làng gần biển thì thôi, nhiều vô số nên PTV tạm đặt tên là làng X.
Làng X gồm phần lớn là người Việt (bây giờ gọi là dân Kinh) sinh sống bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi và dân gần biển thì làm nghề đánh cá. Thiểu số còn lại là dân Tày, Nùng, Mường, Dao… sống trong các vùng rừng, núi. Làng X có một nhà thờ đạo Thiên Chúa giáo từ lâu đời và bà T này là một giáo dân. Nhà thờ do một cha cố đã lớn tuổi coi xứ đạo. Chợ làng thường họp 2 lần vào ngày đầu tháng và giữa tháng (gọi là chợ phiên). Chợ phiên là dịp để dân làng mua bán các sản phẩm như gạo, khoai, vải vóc, trâu bò và cũng là dịp để dân thiểu số (từ các bản sâu trong rừng) ra mua các vật dụng như kim chỉ, vải, muối, dao rựa… là những thứ họ rất cần (không làm ra được). Cũng là dịp để họ mang bán các thú rừng như cheo, trút hoặc mật ong, nấm khô, măng tươi… sản vật mà họ kiếm được trong rừng.
Sống trong làng X có một ông thày cúng gốc người Mường. Ông thày cúng này thường làm lễ giải hạn, cúng đàn chay phá ngục (cho những nhà chết trùng tang), làm bùa ghét, bùa yêu… hay giải bùa chú (bị người khác thư, ếm) cho hầu hết người dân thiểu số trong vùng (có cả người Kinh nữa) khi họ đến cầu ông làm. Ông thày cúng này cũng biết các bài thuốc bí hiểm gần như là bùa (người ta gọi là nèm) để chữa bệnh cho người như bị nhọt sâu quảng, trật chân tay, đau mắt… và cả gia súc cùng mùa màng khi bị sâu bọ ăn phá hư hại (thời đó chưa có thuốc trừ sâu-rầy). Bà T bảo người trong làng gọi ông thày cúng đó là thày Mo còn trong miền Nam thì cái danh xưng của nghề này là thày Pháp. Đáng kể nhất là ông thày Mo này còn có thể làm được các việc thần kỳ như tát cạn một cái ao hay làm đầy nước cho một mảnh ruộng hạn nào đó hoặc gặt xong cả thửa ruộng lúa bị ngập nước chỉ trong một đêm theo lời gia chủ cầu khẩn. Những việc thần kỳ này do âm binh của ông thày Mo làm. Bà T kể âm binh chính là các vong hồn người chết chưa siêu thoát đã được ông thày Mo thu phục làm tay chân (để sai khiến) và không biết bằng cách nào (do ông cầu đảo, thỉnh, luyện…?) mà thày thu phục các vong hồn này được. Chỉ biết là thày Mo càng có nhiều âm binh thì tài nghệ của thày càng cao. Trong tỉnh Quảng Yên khi đó, còn có các ông thày Mo ở các địa phương khác nữa.
Dân làng X có đạo Thiên Chúa có lần đã kể lại các việc làm của thày Mo cho cha cố nghe (sau buổi lễ ngày Chủ Nhật) thì cha cố bảo thày Mo làm được các việc thần kỳ đó là do năng lực của ma quỷ. Không có bọn ma quỷ thì thày Mo chẳng làm được các việc kể trên (tát nước ruộng, diệt sâu bọ, bùa yêu, ngải buôn may-bán đắt, ếm, thư…). Không biết do đâu mà lời của cha cố đã đến tai ông thày Mo và một việc lạ xẩy ra ở trong làng chỉ ít lâu sau đó.
Dở lại các trang sử thì ta thấy trước khi thực dân Pháp chiếm miền Bắc Việt Nam (hòa ước Patenotre 1884) thì các nhà truyền giáo ngoại quốc (Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp…) đã có mặt ở vùng Đông Bắc miền Bắc Việt Nam (giáo phận Hải Phòng) từ thế kỷ 17 rồi (kể từ những năm 1660 trở đi). Các nhà truyền giáo này đến những làng mạc xa xôi hẻo lánh để khai đạo Thiên Chúa và thành lập các xứ đạo nhỏ. Làng X này là một trong số các xứ đạo đó và cha cố trong truyện là một người Pháp nhưng nói rất sõi tiếng Việt. Cha cố ngoài việc làm lễ ở nhà thờ (cùng các việc đạo khác mà giáo dân gọi là phụng vụ) thì còn thêm việc đồng áng trên các mảnh đất chung quanh nhà thờ. Cha cố làm ruộng lấy gạo ăn cùng trồng rau trái tùy theo thời vụ (sống y như đời sống của một người dân trong làng X). Lần đó thì cha cố có trồng một mảnh vườn cà pháo để khi thu hái sẽ ướp muối ăn dần dần. Cà pháo là một quả cà nhỏ lớn cỡ trái quất (tắc, hạnh), vỏ mầu trắng mà ta thấy bán ở các chợ. Vườn cà đó rất tốt nhưng đến kỳ thu hái thì gần như bị… mất sạch (hái trộm ban đêm). Đợi khoảng một tuần lễ khi thấy có thể thu hái cà nữa thì cha cố mới lấy tro bếp (từ rơm rạ, củi) đem rắc lên các lối đi giữa các luống cây cà cùng chung quanh khu vườn (nhằm xem dấu chân của kẻ trộm). Vài ngày như vậy thì một buổi sáng cha cố ra xem vườn cà, thấy đã bị mất gần sạch quả. Nhìn các bệt tro trên mặt đường mà không có bất kỳ dấu chân người, cha cố đã biết thủ phạm.
Cũng như lần trước, khi gần đến ngày trẩy quả cà thì kỳ này, cứ mỗi buổi chiều trời bắt đầu sụp tối, cha cố đem các cỗ tràng hạt (dây kết các hạt cùng tượng chúa Jesus và Đức Mẹ Maria để giáo dân lần chuỗi trên tay khi đọc kinh) và treo trên một số cây cà cùng ở các luống cà, chung quanh vườn. Một buổi sáng khi thức dậy sớm, cha cố ra thăm vườn cà thì thấy dưới một số cây cà cùng ở các luống đi, trên một chục hình nhân bằng giấy (có vẽ chữ ngoằn ngoèo bằng mực tàu) nằm ngay trên mặt đất. Ở mỗi hình nhân bằng giấy này đều có hai quả cà nằm chung với một cọng rơm hoặc một cành cây nhỏ. Cha cố đã thu hết các hình nhân bằng giấy đó và rồi đem đốt bỏ hết cả.
Hình nhân bằng giấy (với 2 quả cà, đòn gánh) nằm dưới một gốc cây có treo cỗ tràng hạt đạo Thiên Chúa.
Thời gian sau thì thày Mo trong làng X đó phải ngưng việc làm của mình cả hàng mấy năm trời. Bà T bảo là phép thầy hết thiêng vì đám âm binh đó đã bị cha cố làm tiêu mất (đốt tan thành tro) và thày Mo phải làm lại từ đầu (thu phục âm binh mới) mất cả bao nhiêu công sức và thời gian.
Người ta kể là đối với những vị thầy Mo thầy Pháp thời trước, âm binh là phương tiện nhanh chóng và đắc lực nhất để thực hiện các công việc riêng của thầy. Vì vậy, không thầy nào hạ sơn mà lại không có một bàn thờ binh trước sân nhà. Âm binh làm việc theo lệnh của thầy: Giúp đỡ, phá phách người dương và chống cả người âm. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ nào đó do thầy Mo, thầy Pháp giao thì âm binh được cúng lễ đàng hòang như lính được tướng khao thưởng ngày xưa. Lễ vật cúng binh từ đơn giản là muối gạo, nổ, cháo hoa cho đến long trọng với đủ thịt cá trái cây rau quả… Như trên trần thế, dưới cõi âm thì âm binh có rất nhiều loại. Tùy theo khả năng tu luyện và phương tiện sử dụng mà thầy chiêu mộ loại âm binh nào. Phổ biến nhất vẫn là binh đại càn, binh chiến sĩ, binh ngũ hổ, binh rừng, binh Ó tà A-rặc… Mỗi loại binh có câu chú luyện riêng. Trước khi thỉnh âm binh về nhà, thầy Mo thầy Pháp phải sắp xếp trên bàn thờ phải có đủ nhang đèn, trầu, rượu, nước, thuốc lá…
Muốn luyện âm binh thì thấy Mo thầy Pháp phải đi tìm những đến các nghĩa địa, bãi chiến trường xưa, vùng đất từng bị ôn dịch chết nhiều vì nơi đó mới có nhiều vong lang thang… dễ dàng chiêu mộ về phục vụ cho mình. Tóm một câu với chuyện của thầy Mo trên đây là:
Phép Ma làm sao mà qua phép Chúa, phép Phật. Tà làm sao có thể thắng Chánh được.
12. Cầu Đa Cô hay Ma Da Kéo Chân.
Có sông thì phải có cầu bắc ngang, đó là sự thường nhưng ở các con sông rộng nước sâu thì cây cầu nơi đó thế nào cũng có người tìm đến để chết. Bất kể ở nước nào thì cũng có vụ người nhẩy từ cầu xuống nước tự vẫn. Có người bảo nạn nhân của các vụ nhẩy cầu tự tử đều là người không biết bơi vì nếu biết bơi, phút cuối cùng gần chết thì do bản năng sinh tồn của cơ thể sẽ khiến họ đập tay chân để… bơi trở lại và sẽ không thể chết được. Cũng có người thì bảo nạn nhân cho dù là người bơi giỏi thì khi tự mình tìm đến cái chết, tay chân họ sẽ cứng lại không thể cựa quậy được nữa. Ma da dưới nước đã kéo chân, họ buộc họ phải chết để… thế chỗ cho ma da.
Tại khu vực quận Liên Chiểu (TP Đà Nẵng) có một cây cầu nhỏ rất nổi tiếng bởi những câu chuyện ma quỷ. Cầu có tên là Đa Cô. Khởi đầu từ chuyện một cô sinh viên trẻ, xinh đẹp mà vì thất tình nên đã gieo mình xuống từ cây cầu này để tự tử. Trước khi tự kết liễu đời mình, cô sinh viên bạc mệnh đó có một lời nguyền gì đấy đã khiến nhiều thiếu nữ trẻ thất tình khác cũng đến bên cầu để kết thúc cuộc đời mình. Vì có nhiều người (con gái) tự tử ở đây nên cầu được đặt tên là Đa Cô. Theo thống kê của chính quyền địa phương thì gần 20 cô gái chết theo bằng cách nhảy cầu ở đây. Ta cứ nhìn trong ảnh sẽ thấy ngoài miếu oan hồn thì còn các am thờ nhỏ nằm dọc theo bên thân mặt cây cầu. Người dân địa phương bảo không phải hết tất cả nạn nhân nhẩy cầu ở đây đều là phái nữ nhưng riêng các cô gái thì kể ra chiếm tới con số 80%.
Trở lại vụ ma da kéo chân người dưới nước thì ở vùng PTV sống có một cái trạm bơm điện khá lớn. Trạm này là một máy bơm khổng lồ dùng bơm nước từ con sông dẫn lên kênh nổi để truyền nước tưới vào các thửa ruộng ở cánh đồng lúa. Đây là cách chống hạn cho đồng ruộng vào mùa khô mà người ta gọi là thủy lợi. Có một kênh dẫn nước từ con sông vào trạm bơm và ngay chỗ đầu vòi hút của máy bơm là một hố nước rất sâu (dồn nước cho máy bơm của trạm) và chính nơi này có… ma da vì cứ vài năm lại có người bị chết đuối khi xuống tắm. Một lần cách đây độ chục năm, trong vùng có một cậu thiếu niên theo đám bạn xuống tắm ở khúc gần vòi hút của trạm bơm này (chỗ thường ngày người trong vùng kéo nhau xuống tắm vì nước trong và đáy không sâu lắm). Cậu thiếu niên tên H, là dân làm ruộng rẫy trong vùng nên biết bơi từ nhỏ. Tắm táp đã đời thì đám bạn của cậu H kéo nhau về hết để cậu ở lại tắm chung với những người khác nữa. Tối đến thì cha mẹ cậu H không thấy con mình ở nhà nên mới hỏi mấy cậu bạn quen. Nghe rồi thì họ cũng chẳng biết tình trạng cậu ta ra sao, chỉ biết chờ tin… Đến ngày thứ ba thì có người báo xác cậu H nổi lên ở trạm bơm và rồi họ vớt xác cậu lên đặt nằm ngay trên bờ để chờ gia đình đến nhận. Chú ruột (em của cha) của cậu H chạy xe máy (đến nhìn xác) thì khi vừa vào đến trạm bơm, gặp xác cậu H thì tự dưng máu đỏ tươi tuôn ra từ mũi của cháu mình. Người đứng vây chung quanh xem ai nấy trông thấy sự việc đều hoảng hồn. Có người thấy máu đỏ ộc ra đó bảo cậu H còn sống, đưa ngay lên bệnh viện cấp cứu may ra còn kịp. Chừng xem kỹ lại thì thực sự cậu H đã chết hẳn (chìm dưới nước cả 3 ngày mới nổi).
Máu đỏ tươi ộc ra từ cái xác lạnh ngắt của cậu H thì người có mặt tại chỗ bảo là do mối quan hệ họ hàng (mẫn cảm của máu huyết) mới khiến có vụ như vậy. Nhưng có người thì bảo tại do người chú ruột khi đến gần xác cậu H đã hỏi câu: Cháu bị ma da kéo giò phải không?
Chuyện kể về trung đoàn 56/ SĐ 3 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà và trung tá Phạm Văn Đính.
Khi sự việc này xẩy ra thì quân đội Hoa Kỳ vẫn còn có mặt tại miền Nam Việt Nam Cộng Hòa.
Trung Đoàn 56 Bộ Binh (TĐ56BB) là 1 trong 3 trung đoàn của sư đoàn 3 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH), 2 trung đoàn kia là trung đoàn 2 và 57. Trung đoàn nầy đóng quân tại căn cứ Carroll (Cộng Sản Bắc Việt gọi là căn cứ Tân Lâm), một căn cứ quân sự lớn nhất trong tỉnh Quảng Trị do quân đội Hoa Kỳ bàn giao lại cho QLVNCH và do trung tá Phạm Văn Đính (PVĐ) chỉ huy. Carroll là tên của 1 đại úy Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tử trận trong cuộc hành quân Prarie ở khu vực nầy vào năm 1966 (do đó đã được người Mỹ lấy tên để gọi cho căn cứ). Ðịa hình của căn cứ rất lý tưởng cho việc phòng thủ vì vòng đai phòng thủ xây theo hình ngũ giác trên một ngọn đồi trống, quân trú phòng có thể quan sát bốn hướng từ xa. Tháng 3 năm 1972, trong căn cứ có khoảng 2000 quân nhân của TĐ56BB với 22 súng đại bác bao gồm 105 ly, 155 ly và 175 ly cùng vài chiến xa Duster hạng nhẹ (trang bị đại bác 40 ly). Nhìn từ góc độ phòng ngự, TĐ56BB trong căn cứ Carroll có thể cầm chân cả một sư đoàn địch (tức Cộng Sản Bắc Việt) dễ dàng.
Vậy mà TĐ56BB lại đầu hàng Cộng Sản Bắc Việt trong ngày 3 tháng 4 năm 1972, điều mà không ai (kể cả tướng Vũ Văn Giai khi đó là tư lệnh sư đoàn 3 Bộ Binh) có thể tin nó xẩy ra được. Trước khi đầu hàng thì trong căn cứ có sự tăng phái của một pháo đội 105 ly của Thủy Quân Lục Chiến QLVNCH (pháo đội B1-tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến) và đơn vị nầy cùng các quân nhân khác trong TĐ56BB đã không chấp nhận ý định đầu hàng của trung tá PVĐ nên họ đã rút bỏ khỏi căn cứ (theo hướng Đông) và về được các phòng tuyến của QLVNCH. Họ, kể lại việc đầu hàng như sau: Khi liên lạc với tướng Vũ Văn Giai xin được yếm trợ (tăng viện và yểm trợ pháo binh cùng không quân cho căn cứ) trước tình trạng bị quân Cộng Sản Bắc Việt bao vây mà không nhận được sự đáp ứng đầy đủ. Trung tá PVĐ đã cho họp các sĩ quan trong đơn vị để lấy quyết định sau cùng (tử thủ hoặc ra hàng). Sau khi có quyết định đầu hàng, trung tá PVĐ đã tìm cách liên lạc (bắt tần số vô tuyến truyền tin) với đại diện của quân Cộng Sản Bắc Việt trong vùng. Ông đã được hướng dẫn mang cờ trắng cùng số quân nhân đồng ý đầu hàng (trên 600 người) ra khỏi trại và đến điểm hẹn với phía Cộng Sản Bắc Việt (do đại úy Bùi Văn Khuyên thuộc Trung đoàn 38 Bông Lau chờ sẵn). Trước lúc đó thì trung tá William Camper, cố vấn Mỹ của TĐ56BB đã gọi về Trung tâm Hành quân của Sư đoàn 3 BB cho biết nhiệm vụ của ông ta ở căn cứ Carroll chấm dứt và xin được di tản bằng trực thăng.
Cá nhân trung tá PVĐ không phải là một sĩ quan thường. Ông có nhiều chiến công trong các trận đụng độ với Cộng Sản Bắc Việt tại chiến trường Quảng Trị-Thừa Thiên từ năm 1964 đến 1971, qua các chức vụ trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, rồi trung đoàn trưởng TĐ56 BB (khi mới 30 tuổi). Đặc biệt là ông là người thượng kỳ lá cờ Việt Nam Cộng Hòa trên kỳ đài Thành Nội Huế trong trận Mậu Thân-1968 (chỉ huy đại đội Hắc Báo-Sư đoàn 1 Bộ Binh).
Nhận định về trường hợp của trung tá PVĐ, cựu trung tướng Ngô Quang Trưởng đã viết trong hồi ký như sau: ” Sư đoàn 3 BB đã không yểm trợ cho trung tá PVĐ đầy đủ và quân đoàn 3 cũng đã quên ông, ông muốn được triệt thoái khỏi căn cứ bị bao vây nhưng Tướng Giai lại không chấp thuận (gần như buộc phải tử thủ). Nhận thấy không còn hy vọng và muốn bảo vệ tính mạng của binh sĩ của mình càng nhiều càng tốt nên trung tá PVĐ (cùng số đông các sĩ quan khác) đã chọn con đường đầu hàng “.
Thiếu tá Tôn Thất Mãn, tiểu đoàn trưởng TĐ 1/56 kể lại thì các sĩ quan dự cuộc họp quyết định trong ngày 2 tháng 4 năm 1972 đó gồm:
– Trung tá Phạm văn Đính – Trung đoàn trưởng
– Trung tá Vĩnh Phong – Trung đoàn phó
– Thiếu tá Thuế – Pháo Binh, phụ tá hỏa lực
– Thiếu tá Tôn Thất Mãn – Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/56
– Đại úy Hoàng Quốc Thoại – Trưởng ban 3
– Đại úy Nhơn – Trưởng ban 2
– Đại úy Hoàng Trọng Bôi – Pháo đội trưởng 175
– Đại úy Nguyễn Văn Tâm – Pháo đội trưởng TĐ1/PB/TQLC.
– Trung úy Lê Văn Kiểu – Pháo đội 105
– Thiếu úy Thái Thanh Bình – Chi đội trưởng Thiết Giáp
– … một số sĩ quan khác không rõ tên.
Trung tá PVĐ nói về tình hình nguy ngập của căn cứ Carroll sau 3 ngày bị phía Cộng Sản Bắc Việt pháo kích dữ dội, mặc dầu chưa có bộ binh địch tấn công, nhưng khả năng của đơn vị trú phòng không thể cầm cự lâu dài vì không có viện binh, không có không quân yểm trợ… Trung tá PVĐ đã trình với tướng Vũ Văn Giai và được trả lời toàn quyền quyết định, tiếp đó ông đưa ra 3 hướng giải quyết để các sĩ quan có mặt trong buổi họp lựa chọn:
Tử thủ, chiến đấu đến giây phút cuối cùng
Mở đường máu để rời khỏi căn cứ
Đầu hàng
Thiếu tá Tôn Thất Mãn đã chọn 1 trong 2 điều trên (tử thủ hoặc mở đường máu để rút khỏi căn cứ) và kết quả là ông đã bị phiá Cộng Sản Bắc Việt bỏ tù 12 năm (sau khi đã phải buộc đầu hàng). Ông kể tiếp: ” Sáng ngày 2 tháng 4 năm 1972, sau khi trung tá Đính thông báo lệnh đầu hàng, ngoài ông thì còn 2 sĩ quan khác chống lại (sau khi trở về đơn vị của mình), đó là đại úy Nguyễn Văn Tâm và thiếu úy Thái Thanh Bình. Ngay giờ phút ấy, hai cố vấn Mỹ trong trung đoàn liên lạc được với trực thăng đang tiếp tế cho căn cứ Mai Lộc gần đó đã đáp xuống để bốc các vị này đi, một số quân nhân VNCH lên theo, trong đó có thiếu úy Bình. Lúc này trung tá PVĐ ra lệnh đại úy Nhơn, trưởng ban 2, cởi chiếc áo lót màu trắng ra treo trước cổng để làm tín hiệu chấp nhận đầu hàng “. Chuyện cờ trắng như vừa trình bày là do Thiếu tá Tôn Thất Mãn kể, nhưng theo thiếu tá Hà Thúc Mẫn được đại úy Hoàng Quốc Thoại, trưởng Ban 3 thuật lại lúc cùng nhau ở trong trại tù Cộng Sản Bắc Việt thì trung tá PVĐ lệnh cho trung sĩ Sừng xé tấm drap trải giường làm đôi. Trong một bài tùy bút của Nguyễn Thắng, phóng viên chiến trường của Cộng Sản Bắc Việt cũng viết: Sau khi sai lính lấy tấm vải trắng trải giường nằm, kéo lên cột cờ, anh Đính đã gọi cho chúng tôi ” Alô, Bông Lau đâu, đã trông thấy cờ trắng chưa? “. Làm đúng theo điều kiện của cấp chỉ huy Trung đoàn 38, Pháo Bông Lau (kéo cờ trắng, bắt 2 cố vấn Mỹ cùng ra hàng, để nguyên vũ khí cùng phương tiện chiến đấu tại chỗ và chỉ huy cùng binh sĩ đi thành hàng đôi theo con đường duy nhất đi đến căn cứ Đầu Mầu sẽ có cán bộ ra đón), các quân nhân của TĐ56BB trong căn cứ Carroll ra hướng quốc lộ 9 theo thứ tự cấp bậc Tá, Úy, Hạ Sĩ Quan, binh sĩ. Cộng Sản Bắc Việt tách riêng bốn sĩ quan cấp Tá khỏi số tập thể quân nhân TĐ56BB. Sáng ngày hôm sau (3 tháng 4), tất cả quân nhân bị áp tải ra Bắc, chiều tối, lúc đến Bến Than, Bến Tắt chuẩn bị vượt sông Bến Hải thì thiếu tá Tôn Thất Mãn cùng một số khác đã tìm cách bỏ trốn, tuy nhiên lúc này địch quân đã được báo động để lùng sục, nên sau 5 ngày đào thoát, họ bị bắt lại. Riêng đại úy Nhơn, trưởng ban 2 trốn được, lần tìm về khu vực Ái Tử, và vì ông này có hành động gì đó làm cho các chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến nghi ngờ, tạm giữ rồi chuyển giao cho an ninh quân đội (Đà Nẵng) điều tra. Có lẽ đại úy Nhơn là người cầm cờ trắng ra trước cổng căn cứ Carroll để làm tín hiệu chấp nhận đầu hàng?
Thiếu tá Tôn Thất Mãn kể thêm: ” Đoàn hàng binh đi bộ 10 ngày đến Quảng Bình, tại đây có xe đưa ra Thanh Hóa và lên tàu hỏa đến trại giam Bất Bạt ở Sơn Tây. Thời gian này liên tục bị hỏi cung, viết bản tự khai, kiểm điểm. Đặc biệt là công an bắt tất cả những sĩ quan có đi du học bên Mỹ phải tường trình đầy đủ những gì đã lãnh hội được và giao cho ông Phạm Văn Đính tổng hợp trình lên chúng. Trong khoảng thời gian này, lãnh đạo trại giam mở đợt vận động tuyên truyền, kêu gọi tất cả sĩ quan đứng lên tự giác từ bỏ lý lịch căn cước quân nhân QLVNCH để trở về với cái gọi là Quân Đội Nhân Dân. Tôi phản đối chiêu bài này. Khi được trực tiếp đặt vấn đề, tôi nói với tên thiếu tá Cộng Sản Bắc Việt Nguyễn Phương: Ngay từ lúc còn ở căn cứ Carroll, tôi đã chống lại việc đầu hàng của trung đoàn trưởng, mặc dầu mọi người đều im lặng, nhưng lúc đó tôi không nghĩ đến sự an nguy của tính mạng mình và đã chống đối đến cùng. Đời lính thắng bại là chuyện thường tình, bây giờ tôi sa cơ thất thế bị phía các ông bắt, hãy xem tôi như là một tù binh chiến tranh, tôi hoàn toàn chấp nhận vị trí ấy, tôi luôn luôn trung thành với lý tưởng mà tôi đã phụng thờ: TỔ QUỐC-DANH DỰ-TRÁCH NHIỆM, đồng thời tôi không phản bội những chiến hữu dưới quyền đã hy sinh “.
Những ngày tháng nằm trong xà lim Cộng Sản Bắc Việt, ông kể thêm: Không đau đớn cho thân xác bởi cực hình và thiếu đói, mà xót xa nhiều điều. Mười năm lính, lúc ở sư đoàn 25 Bộ Binh, tình hình tương đối yên tĩnh, chủ yếu là lo công tác an ninh, bảo vệ dân chúng an tâm làm ăn trong những vùng xa thường bị Việt Cộng về quấy rối… Nhưng khi được trở về chiến đấu trên quê hương Trị Thiên là thời kỳ gian khổ, ác liệt nhất. Có những thời khắc, mạng sống như nghìn cân treo sợi tóc, phải chiến đấu để chiếm từng thước đất, ngọn đồi, từng bờ tường, con phố… tôi đã dẫn đơn vị đi qua và chiến thắng. Thế mà đến đầu tháng 4 năm1972, đó chưa phải là giờ thứ 25 của cuộc chiến, tại một căn cứ hỏa lực hùng hậu (Carroll), có ưu thế phòng thủ với trên 1000 tay súng và một bộ chỉ huy dày dạn chiến trường. Tất cả chưa bắn một phát súng nào, chưa có đơn vị bộ binh nào của địch xuất hiện, cũng không có lời kêu gọi áp đảo tinh thần, mà chỉ mới là những quả đạn pháo binh của địch bắn vào căn cứ liên tục, đồng ý là địch có ưu thế hỏa lực, áp dụng chiến thuật phong lôi (cả một trung đoàn pháo cùng lúc bắn vào mục tiêu) nhưng như thế chưa phải là hoàn toàn bế tắc, để không thể tổ chức chiến đấu, thế mà chúng tôi đã phải buộc lòng quy giáp đầu hàng . Đầu hàng! Tại sao lại như thế? Động cơ nào? Đó là câu hỏi nhức nhối dày xéo tâm can. Tôi cũng đã thẳng thắn nói ra những ý nghĩ ấy cho đối phương là Nguyễn Quý Hải (tác giả của hồi ký Mùa Hè Cháy), nguyên tiểu đoàn trưởng pháo binh thuộc Trung đoàn 38 Bông Lau, đơn vị trực tiếp gây áp lực buộc Trung đoàn 56 Bộ Binh đầu hàng (trong quyển sách này, tác giả Nguyễn Quý Hải kể lại cảm nghĩ của thiếu tá Tôn Thất Mãn về sự thất bại của Trung đoàn 56 Bộ Binh trước sức tấn công như vũ bão của Trung đoàn 38 Pháo Bông Lau. Thiếu tá Tôn Thất Mãn đã trả lời: ” Tôi hết sức ngạc nhiên, không thể tin nổi là số phận của một căn cứ hỏa lực mạnh nhất Quân Đoàn đã được quyết định chỉ trong vòng năm phút “. Hôm nay anh vẫn xác nhận như thế và trình bày thêm: ” Sau khi tuyên bố 3 hướng giải quyết, ông Đính đã không có sự thảo luận với tất cả sĩ quan có mặt và sau lời phản đối của anh Mãn, ông Đính liền ra lệnh đại úy Nhơn cởi áo lót làm tín hiệu… “).
Trung tá PVĐ (cùng số quân nhân) khi về hàng thì phía Cộng Sản Bắc Việt đã cho làm riêng một bộ phim về việc nầy (họ gọi là quân nhân Ngụy làm binh biến chống lại chính phủ Sài Gòn) nhưng trong phim thì không nói lý do ra hàng là vì bị bức bách (thiếu thốn vũ khí, bị địch quân đông hơn bao vây và bị cấp trên buộc phải tử thủ) mà là do một ý định chống lại cuộc chiến nên TĐ56BB đã chọn: Quay về với chính nghĩa, với nhân dân. Trung tá PVĐ sau đó được Cộng Sản Bắc Việt thăng thêm 1 cấp (thành thượng tá) và dùng ông trong việc nghiên cứu (về QLVNCH cùng quân đội Hoa Kỳ) cũng như lung lạc ý chí các sĩ quan thuộc QLVNCH khác đang bị cầm giữ làm tù binh tại miền Bắc. Cựu đại tá Nguyễn Văn Thọ, nguyên tư lệnh lữ đoàn 3 Dù QLVNCH, ông bị bắt sống ngày 25 tháng 2 năm 1971 tại căn cứ 31 (địa điểm 456) trên đất Hạ Lào (trong trận Lam Sơn 719 trước đó) cho biết, ông đã từng gặp mặt trung tá PVĐ (trong quân phục sĩ quan quân đội Cộng Sản Bắc Việt tại một trại tù). Cuộc gặp mặt đó, trung tá PVĐ thuyết phục ông ra cộng tác với phía quân đội Cộng Sản Bắc Việt.
Về binh sĩ của Trung Đoàn 56 BB không chịu tử thủ, sống mái chết bỏ với Việt Cộng thì ta biết là không phải từ khởi đầu các sĩ quan trong đơn vị đã mang tinh thần chủ bại (bằng chứng là các sĩ quan đã phải ngồi lại, họp bàn để chọn quyết định sau cùng). Ở đây ta đặt câu hỏi là tại sao Trung đoàn 56 BB có các sĩ quan chỉ huy xuất sắc như vậy (như bản thân trung tá PVĐ) mà lại chọn quyết định đầu hàng. Có người nói là khi đó do Trung đoàn 56 BB (là 1 trong 3 trung đoàn của sư đoàn 3 Bộ Binh gồm TĐ 2, TĐ 56 và TĐ 57) vì phần lớn binh sĩ đã được bổ sung bằng các thành phần địa phương quân-nghĩa quân, lao công đào binh… nên họ rất yếu kém tinh thần, về huấn luyện cũng như thiếu kinh nghiệm chiến đấu. Chính cố chuẩn tướng Vũ Văn Giai (cựu tư lệnh sư đoàn 3 Bộ Binh) kể lại lai lịch của sư đoàn như sau: Do nhu cầu chiến trường, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH (BTTMQLVNCH) quyết định thành lập một sư đoàn mới để trấn giữ vùng giới tuyến phía Bắc vì sư đoàn 1 Bộ Binh không đủ lực lượng. Tuy nhiên, có thể vì dự tính rút quân theo kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh nên phía Hoa Kỳ không chịu yểm trợ cho việc thành lập sư đoàn mới nầy (nếu đồng ý thì phía đồng minh Hoa Kỳ phải cung cấp thêm vũ khí, quân trang-quân dụng… để trang bị cho một sư đoàn mới). Hoa Kỳ đề nghị đưa một sư đoàn cơ hữu từ trong Nam (VNCH) ra vùng địa đầu giới tuyến (Quân khu 1 của VNCH), hoặc điều động lực lượng Biệt Động Quân.
Ngay từ đầu thập niên 1970, khi quân đội Hoa Kỳ đang rút dần khỏi chiến trường Việt Nam, các đơn vị chủ lực hiện có của QLVNCH đều bị dàn mỏng lực lượng để giữ đất, để trám vào chỗ trống của quân đội Hoa Kỳ khi họ rút về nước (như trường hợp TĐ 56 BB đóng trong căn cứ Carroll của quân đội Hoa Kỳ). Sau khi bàn bạc, BTTMQLVNCH quyết định lấy trung đoàn 2 của sư đoàn 1 Bô Binh làm nòng cốt và tăng cường thêm địa phương quân-nghĩa quân và lao công đào binh từ trong miền Nam ra. Thông thường, một sư đoàn có 3 trung đoàn. Riêng sư đoàn 1 Bộ Binh khi đó lại có 4 trung đoàn. Vì vậy, cắt bớt trung đoàn 2 của sư đoàn 1 BB, thì sư đoàn 1 BB vẫn còn 3 trung đoàn. Đặc biệt nữa, trung đoàn 2 của sư đoàn 1 BB lại có 5 tiểu đoàn, mà mỗi tiểu đoàn có 4 đại đội, nên trung đoàn 2 của sư đoàn 1 BB có 20 đại đội. Nếu theo cách thức cũ, mỗi sư đoàn có 3 trung đoàn, mỗi trung đoàn có 3 tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn có 3 đại đội, thì sư đoàn tân lập cần có số đại đội là: 3 X 3 X 3 = 27 đại đội. Trong khi đó trung đoàn 2 của sư đoàn 1 BB có 20 đại đội, nên chỉ cần bổ sung thêm 7 đại đội để thành lập sư đoàn mới. Và sư đoàn mới nầy là sư đoàn 3 Bộ Binh (thành lập ngày 01 tháng 10 năm 1971). Là sư đoàn mới nhưng sư đoàn 3 Bộ Binh lấy tiếp liệu sẵn có chứ Hoa Kỳ không cung cấp tiếp liệu mới nữa (Chỉ có trung đoàn 2 là được trang bị vũ khí cá nhân như M16, trung liên M60, phóng lựu M79 và tên lửa chống tăng vác vai M72. Và 2 trung đoàn còn lại được trang bị hỗn độn (các báo cáo cho biết có đại đội chỉ được vài khẩu M16, M79, M72 hoặc sử dụng súng trường M14 và thậm chí cả trung liên BAR, Cabin M1, M2 (các vũ khí dành cho lực lượng Nhân Dân Tự Vệ tại hậu phương). Quân trang, quân dụng khác của sư đoàn thì phần lớn phải đi vay mượn từ những đơn vị bạn hoặc từ nguồn bổ sung còn ít ỏi trong Tổng kho Long Bình-Biên Hòa. Đó là vũ khí và các trang bị, còn quân nhân thì sư đoàn 3 Bộ Binh không được tập trung huấn luyện mà chỉ tiếp nhận những đơn vị sẵn có và bổ sung thêm quân số (địa phương quân-nghĩa quân và lao công đào binh từ trong miền Nam ra). Bộ tư lệnh sư đoàn 3 Bộ Binh và hậu cứ chính đóng ở căn cứ Ái Tử, Quảng Trị (do quân đội Hoa Kỳ rút về nước để lại). Đó là thực trạng sư đoàn 3 Bộ Binh trước khi đụng trận vào năm 1972.
Trong cuộc tấn công Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, lực lượng bên phía Cộng Sản Bắc Việt gồm có: 2 sư đoàn Bộ Binh 304 và 308, 5 trung đoàn Bộ Binh biệt lập mang phiên hiệu số 27, 31, 126, 220 và 246, 01 sư đoàn pháo binh, 2 trung đoàn Tăng 203, 204 và 1 trung đoàn thiết giáp PT 76. Lực lượng của QLVNCH gồm có: Giai đoạn đầu sư đoàn 3 Bộ Binh, lữ đoàn 147 TQLC, thiết đoàn 18 Kỵ binh, lực lượng diện địa tỉnh Quảng Trị gồm địa phương quân-nghĩa quân. Giai đoạn sau tăng phái thêm lữ đoàn 258 TQLC, 2 liên đoàn Biệt động quân, lữ đoàn 1 thiết giáp.
Ta thấy là tương quan lực lượng giữa hai bên thì rõ ràng lực lượng bên phía Cộng Sản Bắc Việt vượt trội hơn nhiều. Thiết giáp Cộng Sản Bắc Việt trang bị T54 tối tân của Liên Xô, cán binh gần 4 sư đoàn và phía Cộng Sản Bắc Việt chủ động tấn công (khai mở các trận chiến) trong khi bên phía QLVNCH quân số ít hơn, lại bị thụ động chống trả (như trường hợp của căn cứ Carroll, Cộng Sản Bắc Việt tập trung hỏa lực pháo binh (130 ly, hỏa tiễn 122 ly) nã liên tục hàng trăm quả pháo vào căn cứ này (một vị trí cố định) và đây cũng là yếu tố làm cho binh sĩ trong TĐ56BB giao động). Từ sau trận Lam Sơn 719 (khởi sự từ tháng 1-1971) thì phía Hoa Kỳ đã giảm thiểu các phi vụ không kích (quan trọng nhất là các phi vụ B52) yểm trợ cho QLVNCH) cũng như từ chối lời đề nghị của Đại tướng Cao Văn Viên (với Bộ Tư lệnh Viện Trợ Quân Sự Mỹ tại VN-MACV) là: Thay thế tất cả chiến xa M41 bằng chiến xa M48, thay các đại bác không giật bằng hỏa tiễn chống chiến xa, thêm các tiểu đoàn pháo binh với đại bác tự hành 175… nhưng không được phía Hoa Kỳ đồng ý. Nguyên nhân khiến phía Hoa Kỳ từ chối (các đề nghị tăng cường vũ khí) là vì họ lo ngại QLVNCH, một khi được trang bị các vũ khí tối tân thì sẽ… mở rộng chiến tranh vượt khỏi tầm kiểm soát của họ (Hoa Kỳ).
Trở lại chuyện trung đoàn 56 Bộ Binh đầu hàng Cộng Sản Bắc Việt thì ta thấy theo lời kể của thiếu tá Tôn Thất Mãn chính là vì sự chủ bại của viên sĩ quan chỉ huy đơn vị, trung tá PVĐ. Đành rằng quân nhân trong trung đoàn có những người lấy từ số lính nghĩa quân-địa phương quân và lao công đào binh bổ sung vào mà thành. Số sĩ quan và quân nhân trong trung đoàn có người đã chống lại ý định đầu hàng của trung tá PVĐ (Như trường hợp của thiếu tá Tôn Thất Mãn, đại úy Nguyễn Văn Tâm và thiếu úy Thái Thanh Bình cùng 2 cố vấn Mỹ kể trên đây). Khi đầu hàng Cộng Sản Bắc Việt rồi, vào trại giam thì chúng mới lựa lọc lại. Có người được chúng tin tưởng, thăng cấp ngay (như trung tá PVĐ và trung tá Vĩnh Phong) hoặc bị chúng bỏ tù dù kể cả khi có Hiệp Định Ba Lê 1973 buộc phải trao trả tù binh đã bắt giữ (chương III, điều 8) tại các mặt trận, chúng cũng lờ đi. Thiếu tá Tôn Thất Mãn có những bộc bạch về cá nhân của trung tá PVĐ: ” … trong bao năm cận kề chiến đấu, vào sinh ra tử bên nhau với trung đoàn trưởng, tôi đã có sự liên hệ thân tình, kính mến. Phút cuối ở Carroll, có thể có những lý do thầm kín nào đó để ông Đính đưa đến quyết định tai hại ấy! Lòng tôi có đôi chút thông cảm, tuy nhiên, qua những việc ông cư xử với anh em trong trại tù, cũng như sự hăng say hợp tác với đối phương sau này làm tôi thất vọng, bao nhiêu niềm tin và sự kính phục đã không còn nữa “.
Cuộc chiến giữa hai miền Nam-Bắc tại Việt Nam (từ 1954-1975) có nhiều người ngộ nhận phía miền Bắc (Cộng Sản Bắc Việt) và Việt Cộng miền Nam có chính nghĩa và phía miền Nam (Việt Nam Cộng Hòa) là tay sai của chính quyền Hoa Kỳ. Cảnh nhà cháy, cầu sập, dân lành thương vong do bom rơi-đạn nổ của bất cứ nơi nào đó ở 2 miền Nam-Bắc thì có người đổ cho do bọn Mỹ xâm lược mà ra cả. Họ không chịu truy tìm nguồn gốc của các nguyên do, tại sao có cuộc chiến tranh?. Nhìn vào cảnh tang thương của đất nước trong cảnh chiến tranh khi đó, tại miền Nam VNCH có người chủ hòa cho là phải có lòng thương với những người phía bên kia (Cộng Sản Bắc Việt-Việt Cộng miền Nam) vì chúng ta cùng dòng máu người Việt, là anh em với nhau, con một nhà. Có người chủ bại cho rằng nếu còn tiếp tục chiến tranh thì còn thêm người chết, quê hương sẽ thêm cảnh hoang tàn. Những người này kêu gọi hòa bình, buông súng đừng bắn nhau nữa (chỉ kêu gọi một chiều với phía miền Nam VNCH thôi còn phía Cộng Sản Bắc Việt-Việt Cộng miền Nam thì cứ tiếp tục) rồi hòa bình sẽ tới. Phải biết thương đến đời sống của người dân lành.
Trung tá PVĐ là một trong số những người này khi chúng ta biết về một hồi ký của ông được trích đăng trên tờ báo Đối Diện (số 45 ra tháng 4 năm 1973). Trong quyển hồi ký này (có tựa là Trong Niềm Hòa Hợp), tác giả PVĐ kể lại việc khi mang lon đại úy với chức vụ quận trưởng Quảng Điền vào năm 1967, ông đã tích cực giúp đỡ cho một cán bộ Việt Cộng (tên là Kỳ) khi y ta bị bắt giam. Tác giả đã dựa vào chức vụ quận trưởng để che dấu lý lịch thật của gã cán bộ Việt Cộng đó cũng như viết thư riêng cho trưởng ty cảnh sát địa phương để không tra tấn, hành hạ thân xác và phải đối xử tử tế với gã cán bộ Việt Cộng. Trung tá PVĐ cũng giống như những người sống trong xã hội miền Nam VNCH, dù có các thành đạt trong xã hội miền Nam VNCH nhưng trong đầu óc họ: Luôn thấy hình ảnh cán bộ Cộng Sản Bắc Việt-Việt Cộng miền Nam tương tự như những anh hùng chống Pháp, chống Tàu trong sử Việt ngày trước. Gã cán bộ Việt Cộng đó nhờ các giúp đỡ của trung tá PVĐ mà sau đó đã thoát được trại giam Thừa Phủ và cả hai gặp lại nhau sau này.
Chỉ đến khi cả miền Nam VNCH sa vào tay bọn Cộng Sản Bắc Việt-Việt Cộng miền Nam hoàn toàn (sau ngày 30-4-1975) thì nhiều người có đầu óc chủ hòa, chủ bại mới sáng mắt. Mới thấy rõ phía bên nào (Cộng Sản Bắc Việt-Việt Cộng miền Nam hay Việt Nam Cộng Hòa) có chính nghĩa. Phía bên nào là kẻ xâm lăng-gây ra cuộc chiến tranh trước tiên. Phía bên nào tự vệ và phía bên nào mới thực sự là người biết thương dân lành.
Liệt sĩ khủng bố Việt Cộng mà Phạm Thắng Vũ (PTV) viết bài ở dưới đây là Trần Văn Đang. Bất cứ ai khi mở trang Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia tiếng Việt và dò tìm liệt sĩ Trần Văn Đang thì sẽ thấy kết quả như sau: ” Trần Văn Đang (1942-1965), quê quán ở xã Long Phước, huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long. Ông là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam. Ông là chiến sĩ hoạt động trong đội biệt động Sài Gòn với bí danh là Sang. Trần Văn Đang xuất thân từ một gia đình nghèo khổ, mồ côi cha từ nhỏ. Lớn lên, ông lên Sài Gòn theo người chú kiếm sống qua ngày (Chú ruột ông là một đảng viên cộng sản hoạt động bí mật ở nội thành đã hướng dẫn Ông đi làm cách mạng và cũng chính ông đã đưa Trần Văn Đang vào lực lượng vũ trang nội thành của đội biệt động Sài Gòn). Trần Văn Đang làm nhiều nghề phụ xe, thợ điện, chữa điện dạo và sạc bình ắc quy. Tháng 3 năm 1964 ông tham gia lực lượng vũ trang nội thành của đội biệt động Sài Gòn. Qua một thời gian thử thách, học tập chính trị và quân sự tại căn cứ đội ở Củ Chi, Trần Văn Đang được cấp trên giao nhiều nhiệm vụ quan trọng. Ngày 20 tháng 3 năm 1965 Trong lúc đang thi hành nhiệm vụ đánh mìn Câu Lạc bộ sĩ quan Mỹ ở số 3 đường Võ Tánh, quận Tân Bình – Sài Gòn. Ông bị bắt. Ngày 9 tháng 4 năm 1965 trong một phiên tòa đặc biệt, Trần Văn Đang bị kết án tử hình. Ngày 22 tháng 6 năm 1965 Trần Văn Đang bị đem ra xử bắn, lúc đó ông 23 tuổi. Hồ Chí Minh trong thư gởi thế hệ trẻ cả nước trong tháng 10 năm 1966 đã động viên thanh niên cả nước học tập gương anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi và Trần Văn Đang “.
Trang Wikipedia đó cũng như trong tất cả trang sách lịch sử của phía Việt Cộng hầu như không có một tấm ảnh chân dung nào của Trần Văn Đang. Chỉ duy nhất trên trang mạng ảnh www.Corbisimages.com có lưu trữ một tấm ảnh tử hình Trần Văn Đang tại pháp trường cát (bên hông tòa nhà Nha Hỏa Xa tại bùng binh tượng Trần Nguyên Hãn, đối diện xeo xéo với chợ Bến Thành ở quận 1 thủ đô Sài Gòn).
Không giống như Nguyễn Văn Trỗi, một liệt sĩ Việt Cộng khác thì Trần Văn Đang lại có rất ít người biết đến cái gọi là chiến công của anh ta. Ngay cả bên phía Việt Cộng, sau khi chiếm được miền Nam VNCH thì mãi đến ngày 6 tháng 11 năm 1978, cái gọi là Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam mới tuyên dương danh hiệu: Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang cho Trần Văn Đang và truy tặng Huân Chương Chiến Công Hạng Nhất cho anh ta. Nhà nước Việt Cộng còn lấy tên Trần Văn Đang đặt cho tên đường, trường học nữa. Chính vì việc chậm trễ công nhận Trần Văn Đang là liệt sĩ (hơn 13 năm trời kể từ ngày bị xử bắn) của bên phía Việt Cộng, nên khiến giới trẻ trong nước vẫn có nhiều người tin là Trần Văn Đang khác với các gã Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Văn Bé… là các liệt sĩ dỏm của Việt Cộng (cho là nhà nước Việt Cộng đã điều tra kỹ càng về nhân thân của liệt sĩ Trần Văn Đang).
Luật sư Nguyễn Văn Chức, người được luật sư đoàn Sài Gòn chỉ định biện hộ (thày cãi) cho Trần Văn Đang đã kể lại sự vụ của y như dưới đây. PTV xin chép lại (trích trong báo Con Ong số 84) để quý bạn đọc thấy trong số các nạn nhân của Việt Cộng, cũng có cả các liệt sĩ của chúng như trường hợp Trần Văn Đang ở trong bài viết này.
…
” Tôi về đến nhà, đã thấy chiếc xe mô tô đen của trung sĩ Ân đỗ trong sân. Ân giơ tay chào, đưa cho tôi một phong thư mầu vàng của tòa án Mặt Trận, và yêu cầu tôi đọc ngay. Phong thư đóng dấu ” tối mật “. Tôi xé ra. Bức thư bên trong chỉ vỏn vẹn mấy dòng chữ đánh máy, nhưng tôi đọc rất lâu. Tôi ký sổ biên nhận, rồi bước vào trong nhà.
Ân có chào tôi hay không, và chiếc mô tô rồ máy bỏ đi lúc nào, tôi cũng không để ý. Tôi đang bận nghĩ đến hắn…
Cách đây khoảng 3 tháng, luật sư đoàn Sài Gòn chỉ định tôi biện hộ cho hắn trước tòa án Mặt Trận Vùng Ba Chiến Thuật. Hắn là tên đặc công bị bắt trong khi đặt chất nổ trên đường Tự Do. Hắn bị truy tố về hai tội phản nghịch và mưu sát; hắn có thể bị tử hình. Sau khi xem xong hồ sơ, tôi vào nhà lao để gặp hắn. Đây là một thói quen nghề nghiệp, và cũng là một cái thú. Nói chuyện với tử tù, thường phạm hay chính trị, đôi khi hấp dẫn hơn đọc một cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất.
Tôi ngồi trong phòng đợi, nhìn ra vạt sân nắng bên kia chấn song sắt, rồi chợt nhớ đến Nguyễn Văn Trỗi. Trước đây, Trỗi cũng đã ngồi nói chuyện với tôi trong căn phòng này. Trỗi khóc như một đứa con nít, thỉnh thoảng đưa hai tay lên vắt nước mũi rồi quẹt xuống gầm bàn. Trỗi còn trẻ, mới 26 tuổi, nhưng trông già như người 40.
Hắn trẻ hơn Trỗi. Khi nhân viên nhà lao dẫn hắn đến gặp luật sư, miệng hắn đang còn nhai nhóp nhép, hình như là khô mực. Người hắn sặc mùi dầu khuynh diệp. Hắn khép nép ngồi xuống một cái ghế trước mặt, rồi chăm chú nhìn tôi. Lúc đó tôi mới để ý đến cái đầu húi cua và khuôn mặt non nớt của hắn. Khác hẳn với tấm hình đăng trên các báo: tóc dài bù xù, và mặt nhăn nheo như mang đầy thẹo. Tôi mỉm cười hỏi: ” Em vừa húi tóc? “. Hắn gật. Tôi lại hỏi: ” Em là Trần Văn Đang? “. Hắn gật.
– Em có bí danh Sáu Nhỏ, Hai Gà, Năm Lựu Đạn, có phải vậy không? Hắn gật.
– Em bị bắt khi đặt chất nổ trên đường Tự Do, có phải vậy không? Hắn gật.
Tôi nói cho hắn biết: tôi là luật sư sẽ cãi cho hắn trước tòa, hôm nay tôi vào nhà lao gặp hắn để tìm hiểu thêm về tội trạng của hắn. Và tôi yêu cầu hắn kể lại tất cả sự việc từ đầu đến cuối, để giúp tôi phối kiểm lại hồ sơ.
Hắn nhìn tập hồ sơ trên bàn, rồi nhìn ra ngoài sân rất lâu, như đang suy nghĩ lung về một vấn đề. Tôi cũng nhìn hắn và chợt thấy hắn dễ thương. Hắn vẫn ngồi im. Tôi hỏi: ” Khi lấy cung, người ta có tra tấn và hăm dọa em không? “. Hắn mở to mắt nhìn tôi. Tôi lại dục: ” Em nên kể lại tất cả sự việc, từ lúc được móc nối cho đến khi bị bắt, bị hỏi cung. Em kể lại hay không, đó là quyền của em. Em cũng có thể từ chối không nhận tôi là luật sư của em và chọn một luật sư khác. Đó là quyền của em “.
Hình như tôi còn nói nhiều nữa. Tôi muốn đến gần hắn, tôi muốn được ” hân hạnh ” nói chuyện với hắn.
Hắn nhìn tôi, tỏ vẻ dè dặt. Tôi đợi một lúc khá lâu, rồi lại hỏi: ” Tất cả những điều em khai trong hồ sơ đều là sự thật, có phải vậy không? “. Hắn gật đầu một cách thản nhiên.
Bên ngoài vạt nắng đã thu hẹp lại ở góc tường bao quanh cái sân nhỏ. Tiếng người gọi đi thăm nuôi, tiếng quát tháo, tiếng chửi thề… đã bắt đầu thưa thớt. Tôi không đeo đồng hồ, và trong phòng cũng không có đồng hồ, nhưng tôi đoán lúc đó khoảng 4 giờ chiều, nghĩa là gần hết giờ thăm nuôi phạm nhân. Riêng tôi, vì là luật sư, tôi có thể nói chuyện với thân chủ cho đến 5 giờ chiều. Khổ một nỗi, thân chủ lại không muốn nói chuyện với luật sư. Tôi đành phải làm cái công việc bất đắc dĩ của nghề nghiệp, là tóm tắt hồ sơ và đọc những điểm quan trọng cho thân chủ nghe, để thân chủ hoặc xác nhận, hoặc phủ nhận.
Hồ sơ hắn dầy gần trăm trang đánh máy, gồm phúc trình của Công An và An Ninh Quân Đội. Cô thư ký của tôi đã chép độ 20 trang quan trọng nhất. Riêng tôi đã lận đận trọn một ngày ở tòa án Mặt Trận để đọc lại toàn bộ hồ sơ và ghi chú thêm. Lận đận như vậy, vì lương tâm nghề nghiệp, và cũng vì tò mò nghề nghiệp. Trong những vụ án chính trị lớn tại miền Nam, tôi từng tiêu hoang thì giờ tại tòa án, để đọc và suy nghĩ về những lời khai của các bị can. Nhờ đó, tôi đã biết được cái lý do sâu xa đã khiến văn hào Nhất Linh-Nguyễn Tường Tam uống thuốc độc tự vận, một ngày trước khi tòa xử.
Tôi giở hồ sơ hắn ra và bắt đầu đọc:
Hắn sinh tại Gò Dầu Hạ, bố vô danh. Mười lăm tuổi, hắn mồ côi mẹ và được người chú mang lên làm công cho một tiệm sửa xe Vespa tại đường Trương Minh Giảng-Sài Gòn. Trong thời gian sống ở Sài Gòn hắn làm quen với một tên Tư. Tên này ” xây dựng ” hắn, và gửi hắn vào bưng học tập. Bốn tháng sau, hắn trở về Sài Gòn hoạt động trong tổ đặc công của tên Tư. Một ngày trước khi bị bắt, hắn được tên Tư cho đi ăn uống tại một con hẻm đường Nguyễn Huệ. Sau bữa ăn, cả hai thả bộ ra đường Tự Do để quan sát địa điểm hành động. Đó là một cái ” bar ” Mỹ mà hắn đã từng đi ngang qua nhiều lần. Chiều hôm sau, một buổi chiều thứ Bẩy, tên Tư đem về hai cái bọc, mỗi cái đựng 10 kg thuốc nổ và bộ phận nổ chậm. Tên Tư gài bộ phận nổ chậm, rồi đặt cái bọc thứ nhất trong thùng một chiếc Vespa mầu xanh. Cái bọc thứ hai được đặt trong thùng một chiếc Vespa mầu trắng. Rồi cả hai cùng đi tới địa điểm hành động. Lúc đó, đồng hồ nhà tên Tư chỉ đúng 5 giờ 15 phút. Hắn cưỡi chiếc xe Vespa mầu xanh, tên Tư cưỡi chiếc xe mầu trắng, hai xe cách nhau khoảng 200 thước. Hắn có nhiệm vụ phá cái bar Mỹ đã quan sát chiều hôm trước. Còn tên Tư có nhiệm vụ phá cái bar khác gần khách sạn Eden Rock ở cuối đường Tự Do. Khoảng 15 phút sau, hắn tới cái bar Mỹ. Hắn ngừng xe lại, còn tên Tư tiếp tục đi về phía cuối đường Tự Do. Hắn xuống xe, nhấc chiếc Vespa lên lề đường, rồi dắt chiếc xe về phía cái bar Mỹ. Theo chỉ thị của tên Tư, hắn có nhiệm vụ đỗ chiếc xe Vespa trước cửa cái bar Mỹ rồi bỏ đi. Tên Tư cũng cho hắn biết: quả mìn sẽ nổ đúng 6 giờ. Hắn không đeo đồng hồ. Hắn biết chắc hắn còn nhiều thì giờ, ít nhất là 15 phút để thi hành phận sự. Hắn lấy chân đạp vào chiếc cần sắt của chiếc Vespa, kéo ngược chiếc Vespa lên và dựng chiếc Vespa ngay trước cửa bar. Hắn chưa kịp bỏ đi, thì người cảnh sát đứng bên kia đường thổi còi và ngoắc tay làm hiệu cho hắn phải dắt chiếc xe đi chỗ khác. Hắn đâm ra lúng túng, và trong lúc hạ cần xe xuống, hắn làm đổ chiếc Vespa. Hắn hì hục dựng chiếc Vespa lên. Người cảnh sát bên kia đường lại thổi còi. Hắn đâm ra hốt hoảng. Chiếc Vespa trở nên quá nặng đối với hắn. Hắn sẽ phải dựng chiếc xe lên. Hắn sẽ phải dắt chiếc xe đi chỗ khác. Và hắn chợt nhớ tới quả mìn. Quả mìn sẽ nổ banh xác hắn. Hắn không kịp nghĩ thêm gì nữa. Hắn rầm chạy. Hắn chạy ngược về phía tiệm sơn mài Thành Lễ. Mấy người cảnh sát bên kia đường rút súng, huýt còi đuổi theo. Và hắn đã bị bắt. Khoảng 20 phút sau, nhân viên cảnh sát lục soát chiếc xe Vespa và đã tìm thấy quả mìn. Theo phúc trình của cảnh sát, thì bộ phận nổ chậm bị hư, nếu không, quả mìn đã nổ vào lúc 5 giờ 50 phút, nghĩa là lúc hắn đang lúng túng với chiếc xe Vespa. Theo hồ sơ, hắn nhận hết tội, tại Công An cũng như tại An Ninh Quân Đội, và không một lần nào phản cung. Hắn có vợ và một đứa con trai 10 tháng.
Tôi đọc hồ sơ rất chậm, chờ đợi ở hắn một phản ứng, một cử chỉ, một lời nói. Nhưng tôi đã đọc hết dòng chót, mà hắn vẫn ngồi im, mặt cúi gầm xuống đất. Có lẽ hắn không nghe tôi đọc.
Tôi muốn hỏi hắn về những điểm trong hồ sơ, nhất là về tên Tư nào đó. Nhưng nhân viên nhà lao đã bước vào cho tôi biết chỉ còn đúng 5 phút với hắn. Tôi nhìn ra ngoài, thở dài. Vạt sân đã hết nắng. Khi xốc hồ sơ bỏ vô cặp, tôi vô ý làm rớt tấm ảnh của thằng con trai tôi mới được 8 tháng. Tôi chợt nhớ ra: hắn cũng có một đứa con trai trạc tuổi đó. Tôi liền hỏi: ” Từ ngày em bị bắt, em đã gặp con chưa? “. Hắn nhìn tôi rất nhanh, đôi mắt vụt trở nên khẩn thiết. Tôi lại hỏi: ” Em có muốn gặp vợ con em không? “. Hắn túm tím miệng, nuốt nước bọt cái ực, rồi nói một cách vội vàng: ” Ông có giúp tôi được không? “. Tôi gật. Lúc đó hắn mới cho tôi biết: theo lời khuyên của tên Tư, một tuần trước khi đặt chất nổ, hắn đã cho vợ con về sống với quê ngoại ở Mỏ Cày. Hắn hy vọng vợ hắn đọc báo đã biết tin hắn bị bắt và đã đem con lên Sài Gòn ở với người chú. Hắn cho tôi hai địa chỉ ở miệt Cầu Ông Lãnh, và xin tôi làm mọi cách để vợ con hắn vào thăm hắn trong tù. Hình như hắn muốn nói nhiều nữa, nhưng nhân viên nhà lao đã bước vào đem hắn đi. Hắn bỗng nắm chặt bàn tay tôi, cánh tay run run. Hắn nhìn tôi, và tôi thấy mắt hắn ướt.
Chiều hôm ấy, khi ra khỏi nhà lao, tôi lái xe thẳng đến khuôn viên nhà thờ Đức Bà, gửi xe cho một đứa bé, rồi thuê xích lô đạp về chợ Cầu Ông Lãnh. Tối mịt, tôi mới ra về. Tôi không tìm thấy vợ con hắn.
Trưa hôm sau, tôi viết hai lá thư, một cho người chú, một cho vợ hắn, báo tin ngày tòa xử và nhắn vợ hắn đến văn phòng tôi để làm thủ tục xin giấy đi thăm nuôi chồng. Ký xong bức thư, tôi vào nhà lao báo cho hắn biết về cuộc tìm kiếm của tôi. Nhưng tôi không được gặp hắn: hắn đã bị trả về An Ninh Quân Đội để bổ túc hồ sơ. Từ hôm đó đến ngày xử, tôi không có dịp gặp hắn nữa.
Hôm tòa xử, tôi đi rất sớm. Mới 8 giờ sáng tôi đã có mặt ở bến Bạch Đằng. Khi lái xe vào cổng tòa án Mặt Trận, tôi thấy một thiếu phụ ôm con ngồi nép ở lối đi, bên cạnh một cái lẵng mây. Không hiểu sao tôi nghĩ đó là vợ hắn. Tôi đỗ xe trong sân tòa án, rồi đi bộ ra cổng gặp người thiếu phụ. Tôi hỏi ngay: ” Chị là vợ anh Đang? “. Thiếu phụ gật. Tôi hỏi: ” Chị được tin hôm nào? “. Thiếu phụ cho biết: khi đọc báo biết tin chồng bị bắt, chị muốn lên Sài Gòn ngay, nhưng vì đứa con đau nặng, nên ông bà già không cho đi. Cách đây bốn hôm, chị nhận được thư của người chú báo tin ngày tòa xử, vả lại đứa con cũng đã gần hết bịnh, nên ông bà già cho đi.
Tôi nhìn đứa bé nằm ngủ trong lòng mẹ. Da nó xanh mét. Thỉnh thoảng nó cựa mình rên khe khẽ, người mẹ lại vỗ nhẹ lên người nó để ru. Chị ta hỏi tôi: ” Thưa ông, liệu ảnh có việc gì không? “. Tôi không tìm được câu trả lời. Tôi nhìn đứa bé rồi hỏi: ” Cháu được mấy tháng? “. Chị ta trả lời: ” Con sanh cháu được 10 tháng thì ảnh bị bắt “.
Bỗng có tiếng còi hụ và tiếng người nhốn nháo. Tôi nhìn về phía đường Bạch Đằng. Một chiếc xe nhà binh đang trờ tới. Đó là xe chở tội nhân. Những người đứng dưới đường vội vàng dạt ra hai bên để cho xe quẹo vào cổng tòa án. Khi chiếc xe đi ngang qua, tôi nhìn thấy hắn, và người vợ cũng nhìn thấy chồng. Chị ta vội vã đứng lên, một tay xách chiếc lẵng mây, một tay ôm con, lễ mễ chạy vào trong sân tòa.
Đoàn tội nhân đã xuống khỏi xe, đứng xếp hàng giữa sân tòa. Hắn đứng ở hàng chót, ngơ ngác nhìn quanh như tìm kiếm. Vợ hắn gọi lớn: ” Anh hai, em và con đây nè “. Hắn quay mặt về phía tiếng gọi, và khi trông thấy vợ hắn, hắn giơ hai tay bị còng lên như muốn ôm ghì một hình bóng. Vợ hắn đứng cách xa hắn chỉ một khoảng sân nhỏ. Chị ta bỏ chiếc lẵng mây xuống đất, ôm con xăm xăm chạy về phía hắn. Nhưng người lính đã ngăn chị ta lại, rồi ra lệnh cho đoàn tội nhân đi vào hành lang. Đây là một lối đi lộ thiên, nằm giữa hai bức tường của hai dãy nhà quay lưng vào nhau. Người ta dùng chỗ đó để tạm giữ tội nhân, trong khi chờ tòa gọi tội nhân ra trước vành móng ngựa.
Hắn ngồi hàng chót, nép vào chân tường. Tay hắn đã được mở còng. Vợ hắn lễ mễ ôm con lại gần. Người lính định cản lại, nhưng thấy tội nghiệp, nên đã để cho đi qua.
Tôi chỉ kịp trông thấy người đàn bà ngồi thụp xuống đất bên cạnh người chồng rồi khóc nức nở. Hắn không khóc, mở to mắt nhìn về trước mặt, một tay để lên vai vợ, một tay vuốt tóc con. Lúc sau người vợ lấy vạt áo lau nước mắt, rồi lấy ở trong lẵng ra một xị nước ngọt đựng trong túi nylon đưa cho chồng: ” Anh uống đi cho đã khát, em có mua cho anh ổ bánh mì thịt ở trong lẵng “. Hắn rời tay khỏi vai vợ, đỡ lấy túi nước ngọt đưa lên môi, nhưng tay kia vẫn sờ trên mình đứa con, đôi mắt dịu hẳn xuống. Trong một lúc tình cờ, hắn ngẩng đầu lên. Hắn nhìn thấy tôi đứng bên kia tường. Tôi giơ tay làm hiệu chào hắn.
Chỉ còn độ một hai giờ nữa, tòa sẽ kêu đến vụ hắn. Tôi muốn nói chuyện với hắn. Nhưng tôi không nỡ làm bận rộn cuộc xum họp mà tôi linh cảm là cuộc xum họp lần chót. Tôi thở dài ái ngại, rồi bỏ đi ra phía sân tòa. Thời gian như chậm lại. Hắn, con hắn, vợ hắn, lởn vởn trong đầu tôi. Làm thế nào để cứu hắn khỏi chết? Làm thế nào để tòa án hiểu rằng: hắn, cũng như Nguyễn Văn Trỗi, cũng như bao thanh thiếu niên khác, chỉ là nạn nhân đáng thương của một hệ thống đểu cáng và vô nhân đạo nhất lịch sử loài người.
Mãi mười một giờ trưa, tòa mới kêu đến tên hắn. Hắn từ hành lang đi ra, bên cạnh hai người lính. Vợ hắn lễ mễ ôm con theo từ đằng xa, rồi ngồi xuống một chiếc ghế cuối phòng xử. Phòng xử hôm đó đông nghẹt dân chúng. Bên ngoài, trời oi ả như sắp có cơn dông.
Trước vành móng ngựa, hắn nhỏ bé và non nớt hơn cái hôm tôi gặp hắn trong nhà lao. Da hắn xanh mướt, và nét mặt thản nhiên. Tôi đến bên hắn, hắn quay lại nhìn tôi một thoáng rồi lại nhìn thẳng đàng trước mặt. Không khí nặng nề. Cả phòng xử im lặng. Ông chánh thẩm hỏi lý lịch, rồi truyền cho hắn trở về ghế bị can để nghe bản cáo trạng. Tôi cũng từ vành móng ngựa đi theo xuống ngồi bên cạnh hắn. Hắn xích lại gần, như để tỏ lòng biết ơn. Viên lục sự bắt đầu đọc bản cáo trạng, tiếng ông ta vang lên đều đều. Cả tòa, từ ông chánh thẩm, ủy viên chính phủ, đến công chúng ngồi dưới, đều lắng tai nghe. Chỉ có hắn là không. Hắn nhìn đăm đăm đàng trước mặt, như đang suy nghĩ. Có lẽ hắn nghĩ tới vợ con hắn. Một lần, tôi chợt thấy hắn quay đầu lại nhìn xuống cuối phòng xử, như muốn tìm xem vợ con hắn ngồi ở đâu. Bỗng nhiên, mặt hắn biến sắc, tay hắn run run, đầu cúi rầm xuống.
Viên lục sự đã đọc xong bản cáo trạng. Hắn rời ghế bị can, rồi cùng tôi bước lên vành móng ngựa.
Ông chánh thẩm hỏi: ” Anh đã nghe bản cáo trạng. Anh bị cáo về tội phản nghịch và mưu sát. Anh có nhận tội không? “. Hắn gật đầu.
– Anh có thể kể lại cho tòa nghe tất cả sự việc từ đầu đến cuối không?
Hắn nhìn ông chánh thẩm, nhìn bồi thẩm đoàn, nhìn ủy viên chính phủ, nhìn tôi, rồi lắc đầu.
Ông chánh thẩm lại hỏi: ” Có phải anh đã đỗ chiếc Vespa trước cái bar Mỹ? “. Hắn gật.
– Anh có biết chiếc Vespa có chất nổ không?
Hắn gật.
– Anh đỗ chiếc Vespa trước cửa bar, để phá cái bar đó, có phải không?
Hắn gật.
– Tên Tư bao nhiêu tuổi, vóc dáng như thế nào?
Hắn đứng im không trả lời.
Ông chánh thẩm nhìn tôi, tôi nhìn ông ta. Một bên ở vào cái thế khó xử, một bên ở cái thế khó cãi. Đại tá Ủy viên Chính Phủ bỗng quát lớn: ” Tại sao bị can không trả lời? “. Hắn ngước mắt nhìn ủy viên chính phủ, rồi đứng im như pho tượng.
Khi tòa trao lời cho ủy viên chính Phủ chính thức đặt câu hỏi, thì ủy viên chính phủ nhún vai, như muốn nói với tòa rằng ông không có gì để hỏi một bị can chỉ biết gật với lắc đầu. Nhưng chỉ một vài giây sau, ông nói như hét: ” Thằng Tư, tên thật nó là gì. Địa chỉ nó ở đâu? “. Hắn lại nhìn ủy viên chính phủ rồi im lặng. Một lần nữa, ủy viên chính phủ lại nhún vai và làm cái cử chi quen thuộc để tòa hiểu rằng ông ta không còn gì để hỏi nữa.
Đến lượt tôi đặt câu hỏi. Tôi hỏi hắn: ” Khi bị lấy cung tại Công An và An Ninh Quân Đội, em có bị tra tấn hoặc bị hăm dọa không? “. Hắn lắc đầu. Tôi lại hỏi: ” Em có hối hận vì đã trót nghe lời dụ dỗ của tên Tư không? “. Hắn cúi gầm mặt xuống lắc đầu.
Tôi đã đưa ra hai cây sào để cứu hắn. Không ngờ hắn đã từ chối không nắm lấy và hình như còn thích thú để cho nước cuốn trôi đi. Nước mắt người vợ và tình thương con đã không làm hắn thay đổi. Một đời luật sư, tôi từng ngang dọc trong những vụ kiện lớn của chế độ, nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy mình bất lực như hôm nay.
Ủy viên Chính Phủ đứng lên buộc tội. Trong 15 phút hùng biện, ông gay gắt lên án bị can. Ông nhấn mạnh đến trường hợp quả tang phạm pháp, đến bản chất của tội trạng (phản nghịch và mưu sát) và sự ngoan cố của bị can. Ông kết luận: ” Trong cuộc đấu tranh chống lại bọn cộng sản ” kẻ thù của dân tộc ” chúng ta cần phải nghiêm trị những bọn phá hoại, những tên cán bộ nằm vùng, những tên đặc công khủng bố giết người không gớm tay. Nếu hôm đó quả mìn nổ, bao nhiêu dân chúng qua đường đã bị chết thảm, bao nhiêu người dân vô tội đã bị què cụt đui mù… “. Ông yêu cầu tòa lên án tử hình. Tòa trao lời cho tôi. Trách nhiệm của tôi quá lớn, và nhiệm vụ của tôi quá khó khăn. Tôi biện hộ cho một bị can phạm tội phản nghịch và mưu sát với trường hợp gia trọng. Bị can ấy nhận tội tại Công An, tại An Ninh Quân Đội, và trước tòa án. Bị can ấy từ đầu đến cuối không lúc nào phản cung. Bị can ấy từ chối không trả lời tòa án, không trả lời ủy viên chính phủ, không trả lời luật sư. Bị can ấy im lặng tuyệt đối, như để bảo mật cái tổ đặc công giết người của hắn, theo một mệnh lệnh… Giọng tôi trầm trầm. Tôi nói, hình như không phải cho tòa nghe, mà cho chính tôi nghe. Tôi nói, để cố trả lời cho những câu hỏi mà chính tôi đang thắc mắc. Tại sao hắn không có một lời để tự bào chữa? Tại sao hắn đã nhận tội một cách thản nhiên, và không một lần nào phản cung, trong hồ sơ cũng như trước tòa án? Hắn là một tên đặc công bị bắt quả tang trong khi đặt chất nổ, chắc chắn hắn đã bị tra tấn của công an trong khi lấy cung. Tại sao hắn không nói điều ấy ra trước tòa? Và tên Tư? Tên Tư là ai? Tại sao hắn lại im lặng không chịu cung khai về tên Tư? Tại sao hắn lại từ chối không trả lời những câu hỏi có lợi cho hắn?
Không ai muốn chết. Không ai muốn bị hành hình. Không ai muốn bị đập chết như một con chó ở góc tường, như những nhân vật trong tiểu thuyết Kafka. Huống chi, hắn mới 21 tuổi, có vợ, có con, và thương vợ thương con. Thế thì tại sao hắn lại im lặng? Chỉ có một câu trả lời. Hắn bị quyến rũ phạm tội ác, và sau khi bị bắt, hắn vẫn bị theo rõi. Hắn sợ vợ con hắn bị trả thù, hắn đã phải im lặng, tuyệt đối im lặng. Biết đâu trong phòng xử hôm nay, lại không có tên Tư nào đó đang ngồi theo rõi hắn. Hướng về phía ông Ủy viên Chính Phủ, tôi nói như tâm sự: ” Tôi đồng ý với ông là chúng ta, những người quốc gia, phải thẳng tay trừng trị, nếu cần, phải giết những tên đặc công gian manh, những tên cán bộ khát máu, những tên đặc công giết người không gớm tay. Nhưng trong hiện vụ, tôi không nghĩ bị can là một tên cộng sản gian manh, một tên cán bộ khát máu, một tên giết người không gớm tay. Và đây là điểm cực kỳ quan trọng: quả mìn hôm ấy đã không nổ “.
Kết luận, tôi yêu cầu tòa khoan hồng. Bị can mới hai mươi mốt tuổi, chưa hề can án, có vợ còn trẻ và con còn nhỏ, vì vậy đáng được hưởng sự khoan hồng của luật pháp.
Sau lời biện hộ của tôi, tòa hỏi hắn: ” Luật sư đã biện hộ cho anh rồi. Anh có quyền nói lời chót. Anh muốn nói gì không? “. Hắn lắc đầu. Tòa ngưng xử, bước vào phòng để nghị án. Khoảng một giờ sau, tòa trở lại tuyên án: tử hình. Lập tức, hắn bị còng tay mang đi. Lúc đó, đã quá trưa, những đám mây đen từ đâu kéo về bao kín cả một góc trời đã mất ánh sáng. Dân chúng kéo nhau ra về. Tôi xách cặp đi ra xe như người mất hồn. Khi lái xe qua cổng tòa án, tôi thấy vợ hắn ôm con ngồi khóc. Tôi về văn phòng, viết đơn xin ân xá cho hắn. Đây chỉ là thủ tục tòa án, nhưng tôi đã làm với tất cả sự cẩn trọng của một lễ nghi tôn giáo. Tôi muốn cứu hắn khỏi chết. Vì nhân đạo. Vì nghề nghiệp. Và cũng vì trường hợp cá biệt của hắn.
Hắn khác Nguyễn Văn Trỗi. Nguyễn Văn Trỗi khóc lóc van xin trước tòa, và sau khi bị tòa lên án tử hình, Trỗi đã hô lớn ” Hồ Chí Minh muôn năm “. Hô xong lại khóc, lại van xin. Còn hắn, hắn nín thinh. Không khóc lóc, không van xin, không hô khẩu hiệu.
Hắn khác Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Hữu Thọ huênh hoang và cao ngạo trước tòa. Hắn chịu đựng, nhẫn nhục, đến độ gần như khắc kỷ. Tôi nghĩ đến con chó sói trong bài thơ ” La Mort du Loup ” của thi hào Vigny.
Ba tháng đã trôi qua. Bức thư của tòa án Mặt Trận mà trung sĩ Ân đưa cho tôi chiều hôm nay chỉ vỏn vẹn mấy dòng chữ đánh máy: ” Trân trọng báo để luật sư tường: đơn xin ân xá của Trần Văn Đang đã bị bác. Ngày mai, hồi 5 giờ sáng, bản án tử hình sẽ được thi hành. Nếu luật sư muốn hiện diện nơi hành quyết, thì xin có mặt tại khám Chí Hòa vào lúc 4 giờ sáng. Trân trọng “.
Suốt đêm, tôi trằn trọc không ngủ, đầu óc lởn vởn khuôn mặt của hắn, và hình ảnh của hắn ngồi trong hành lang tòa án, một tay để lên vai vợ, một tay sờ lên mình đứa con. Chưa đầy 3 giờ sáng, tôi đã thức dậy, đi vào khám Chí Hòa. Tôi bước vào phòng đợi, đã thấy một nhà sư gầy gò mặc nâu sòng đang ngồi lần chuỗi hạt. Viên quản đốc nhà lao cho tôi biết: nhà sư đã đến trước tôi cả nửa giờ. Lát sau, một linh mục béo tốt bước vào, trong bộ quân phục thiếu tá tuyên úy. Bốn giờ ba mươi phút, ủy viên chính phủ đến. Rồi đoàn người, gồm viên quản đốc nhà lao, ủy viên chính phủ, luật sư, và hai vị tuyên úy, lặng lẽ đi vào một căn phòng rộng. Thường nhật, đây là chỗ điểm danh tội nhân. Hắn đã ngồi đó từ bao giờ, bên cạnh cái bọc quần áo. Ánh sáng vàng bệch của ngọn đèn cáu bụi trên trần nhà phả xuống bốn bức tường trắng xóa. Tôi chợt có ý nghĩ kỳ lạ là đang bước vào căn nhà xác của bệnh viện. Đoàn người tiến lại gần hắn. Hắn đứng dậy, đôi mắt như dò hỏi. Một phút im lặng, dài như một ngày. Đại tá ủy viên chính phủ trịnh trọng nói với hắn: ” Anh hãy cam đảm lên, và nghe tôi đọc “. Rồi ông lớn tiếng đọc bản án tử hình và bản quyết định bác đơn xin ân xá của hắn. Hắn cúi đầu nhìn xuống sàn nhà, đôi mắt mở to. Người hắn run lên. Nhưng chỉ giây lát, hắn lấy lại bình tĩnh. Hắn hỏi: ” Bao giờ người ta xử tôi? “. Viên quản đốc nhà lao để tay lên vai hắn: ” Ngay sáng hôm nay, trước khi mặt trời mọc “. Rồi ông thân mật nói với hắn: ” Bây giờ em muốn ăn uống gì không, khám đường sẽ chu tất cho em ? “. Hắn lắc đầu.
Lúc đó, không ai bảo ai, mỗi người nói với hắn một vài câu an ủi. Không khí trở nên thân mật và âu yếm như trong một cuộc tiễn đưa. Riêng tôi chỉ nhìn hắn, tôi muốn nói chuyện riêng với hắn; đó là quyền của tôi, quyền của luật sư biện hộ. Ủy viên chính phủ đồng ý, và cho tôi biết: tôi có 5 phút. Rồi đoàn người bước ra khỏi phòng, để một mình tôi với hắn. Người cuối cùng đã bước ra khỏi phòng. Hắn nắm lấy tay tôi, và nhìn tôi rất lâu, đôi mắt ướt sũng. Tôi hỏi: ” Em có muốn nói nhắn với vợ em điều gì không? “. Hắn suy nghĩ giây lát, rồi nói: ” Em bị chúng nó lừa. Luật sư có gặp vợ em, thì bảo đừng ở dưới vườn nữa, và nuôi lấy con “. Tôi hỏi: ” Em chết, có điều gì oán hận không? “. Hắn không trả lời. Tôi an ủi hắn: ” Người ta, ai cũng phải chết một lần, đời sau mới là quan hệ. Em theo đạo nào? “. Tôi là người Công giáo. Tôi ước ao hắn dành một vài phút để nghĩ đến Thượng Đế và tình thương bao la của Người. Nhưng ủy viên chính phủ đã bước vào nói nhỏ: ” Luật sư hết giờ rồi “. Rồi ông thân mật hỏi hắn: ” Ở đây có hai vị tuyên úy em muốn nói chuyện với ai? “. Hắn nhìn nhà sư mặc áo tu hành, hắn nhìn vị linh mục mặc quân phục thiếu tá, rồi xin được nói chuyện với nhà sư. Tôi cúi đầu theo ủy viên chính phủ và vị linh mục đi ra một góc phòng. Nhìn về phía hắn, tôi thấy nhà sư cúi đầu tụng kinh, và hắn cũng cúi đầu như lắng tai nghe kinh. Khoảng khắc, nhà sư ngẩng đầu lên, đặt tay lên vai hắn, trong một cử chỉ vỗ về bao dung. Lúc đó, đồng hồ trên tường chỉ đúng 5 giờ sáng, giờ khởi hành. Người ta xúm lại chung quanh hắn, mỗi người nói với hắn một câu chân tình. Hắn như chợt nhớ ra, xin phép được thay quần áo. Một cảnh sát viên chạy lại cầm cái bọc quần áo đưa cho hắn. Hắn mở bọc, lấy ra một chiếc sơ mi cụt mầu xám, và một chiếc quần vải dragon đen đã bạc mầu. Khi hắn quay mặt vào tường để thay quần áo, tôi nhìn thấy những lằn roi trên da thịt xanh xao của hắn. Thay xong quần áo, hắn xin một điếu thuốc. Viên quản đốc nhà lao mỉm cười, rút trong túi ra một bao thuốc lá Ách Chuồn. Ông ta trịnh trọng lấy ra một điếu, dộng dộng trên ngón tay cái, rồi đưa cho hắn. Hắn ngậm điếu thuốc, và được viên quản đốc châm lửa. Lúc đó, nhân viên an ninh đến. Hắn ngoan ngoãn đưa hai tay chụm ra đằng trước để người ta còng. Rồi đoàn người lặng lẽ đi ra. Hắn đi đầu, thản nhiên bước qua từng đợt cửa, thỉnh thoảng dùng hai tay còng đưa điếu thuốc lên môi. Khi đoàn người ra tới sân nhà lao, điếu thuốc gần lụi, và hắn buông rơi xuống đất. Hắn bước lên chiếc xe bít bùng, đầu hơi cúi xuống. Cửa xe đóng sập lại. Tôi lên xe riêng, lái thật nhanh ra khỏi nhà lao.
Chiếc xe của tôi lầm lũi đi trong đêm, ánh đèn pha chiếu dài cả con đường Hòa Hưng, rồi đường Lê Văn Duyệt. Thành phố Sài Gòn đang trở mình thức giấc, một vài gánh hàng đi nép bên lề đường. Và đó đây, có tiếng động cơ quen thuộc của những chiếc xe Lam dậy sớm. Tới bùng binh chợ Bến Thành, tôi đã thấy một đám đông bu quanh vùng ánh sáng của pháp trường cát. Những phóng viên ngoại quốc chạy nhốn nháo, với máy ảnh và máy quay phim. Cảnh sát chận xe tôi lại. Khi nhìn thấy chiếc áo đen của tôi, họ dẹp đám đông cho xe tôi tiến vào. Tôi đỗ xe sát chân tường Nha Hỏa Xa, cách pháp trường cát độ 30 thước. Những ngọn đèn pha cực mạnh đã được đặt tại đó chiều hôm trước. Tất cả đều chiếu vào pháp trường cát, tạo nên một vùng ánh sáng rợn người. Một chiếc cọc đen đứng cô đơn, đằng sau là những bao cát chất thành vòng cung. Cách đó 3 thước, là chiếc quan tài đậy nắp, trên nắp có một tấm vải trắng. Xa nữa là chiếc xe chữa lửa.
Tôi đứng trong vòng ánh sáng chưa được 10 phút thì nghe tiếng còi hụ. Người ta chạy nhốn nháo. Tôi háy mắt nhìn về phía tiếng còi hụ, thì thấy đoàn xe chở tội nhân đang tiến tới. Chiếc xe bít bùng đỗ lại bên lề đường. Lát sau hắn bước xuống khỏi xe. Tôi vội choàng lên người chiếc áo đen, chạy ra với hắn. Hắn và tôi đi đầu, theo sau là đoàn áp giải. Hắn bước đều đều, mặt cúi xuống đất. Dân chúng bu nghẹt chung quanh, chỉ chừa một lối đi được ngăn giữ bằng hàng rào an ninh. Bây giờ chúng tôi đã bước vào vùng ánh sáng. Hắn bỗng ngửng đầu lên, và đứng khựng lại. Người lính đằng sau lấy tay đẩy nhẹ vào lưng hắn, hắn lại tiếp tục bước đi. Tôi đoán chiếc quan tài và chiếc khăn liệm đã làm hắn khựng lại. Hình ảnh trung thực của chiến tranh không được tìm thấy ở chiến trường ” da ngựa bọc thây “, mà được tìm thấy trong các bệnh viện, nơi đó có những hình hài cụt chân cụt tay, những đống thịt bầy nhầy, những hố mắt sâu thẳm, những cuốn băng bê bết máu, và những tiếng rên rỉ đau đớn. Và hình ảnh trung thực của cái chết vẫn là chiếc quan tài, tấm khăn liệm và những người thân yêu tiễn đưa. Bây guờ, hắn và tôi đã bước vào trong vòng những bao cát. Người ta mở còng, rồi giữ ghì lấy hai cánh tay hắn, đẩy hắn dựa lưng vào chiếc cọc sắt. Hai cổ chân hắn bị cột chặt vào thân cọc, hai cánh tay hắn bị kéo ngược ra đằng sau, cột ngược vào một cái cọc ngang. Chiếc cọc ngang này hơi cao, hắn phải kiễng chân lên. Hắn nhăn mặt kêu đau. Tôi nói với viên sĩ quan: ” Đằng nào tội nhân cũng sắp chết, ông nên cho hạ thấp chiếc cọc ngang xuống, kẻo máu bị ngừng ở nơi nách, tội nghiệp “. Viên sĩ quan gật đầu, hạ thấp chiếc cọc ngang xuống. Hắn nhìn tôi, và lần đầu tiên hắn nói: ” Cám ơn luật sư “. Lúc đó, đội hành quyết đã sắp hàng chỉnh tề, chỉ còn đợi sĩ quan Quân Trấn Trưởng của Quân khu Sài Gòn đến là khởi sự. Một phút, hai phút, rồi ba phút… Cả pháp trường im lặng, trong sự đợi chờ và trong ánh sáng chói chang.
Chỉ còn mình tôi đứng bên cạnh hắn. Hắn bỗng trăn trối: ” Em đã bị chúng nó lừa. Luật sư nhớ bảo vợ em đừng ở dưới vườn, đừng nghe theo chúng nó và gắng nuôi con “. Tôi gật đầu. Hắn nấc lên: ” Con ơi, Cảnh ơi, Cảnh ơi “. Tiếng nấc của hắn làm tôi mủi lòng. Tôi để tay lên vai hắn, định an ủi, nhưng cổ họng bị tắc nghẽ. Tôi chợt nghĩ đến linh hồn hắn. Tôi thì thầm bên tai hắn: ” Em hãy ăn năn hối cải, và cầu xin Chúa giúp em chết lành. Em chết, nhớ phù hộ cho vợ con em “. Hắn lại nấc lên: ” Con ơi, con ơi, Cảnh ơi, Cảnh ơi “. Lúc đó, có tiếng còi hụ. Quân Trấn Trưởng đến. Đội hành quyết đứng nghiêm. Người ta bịt mắt hắn. Hắn vẫn nấc, vẫn gọi tên con. Có tiếng lên đạn đàng sau lưng tôi. Ủy viên chính phủ nói lớn: ” Xin ông luật sư đứng tránh xa ra một bên “. Tôi đi giật lùi ngang về phía bên trái, mắt không rời hắn. Miệng hắn vẫn lắp bắp gọi tên con. Một tiếng hô. Một loịat đạn nổ. Đầu hắn ngoẹo xuống, gục về bên trái. Máu từ trong người hắn chảy róc xuống đùi, xuống chân, rồi bò ngoằn ngoèo trên lề đường. Viên đội trưởng hành quyết tiến lại, nắm tóc kéo ngược đầu hắn về phía sau, dí khẩu súng lục vào màng tang bên trái của hắn, bắn phát súng ân huệ. Một tiếng ” đẹt ” khô khan. Người ta vội vàng liệm xác hắn, và chiếc vòi nước của chiếc xe chữa lửa vội vã phụt sạch những vết máu trên lề đường. Phương Đông, chân trời đã bắt đầu hừng đỏ.
Tối hôm đó, đài phát thanh Hà Nội mặc niệm hắn, hết lời ca tụng cái chết anh hùng của hắn. Đài phát thanh Hà Nội nói rõ ràng: từ lúc bị trói vào cọc cho đến lúc bị hành quyết, hắn đã noi gương anh hùng Nguyễn Văn Trỗi, không ngớt đả đảo Mỹ Ngụy và hô to khẩu hiệu ” Hồ Chí Minh muôn năm “.
Nguyễn Văn Chức
Chú thích (của luật sư Nguyễn Văn Chức):
Dưới đây là những chi tiết liên quan đến vụ Trần Văn Đang. Bị can sinh năm 1942 tại Vĩnh Long, bị bắt ngày 30 tháng 3 năm 1965 trong khi đặt chất nổ, bị đem ra tòa án Mặt Trận hai tuần sau, và bị bắn tại pháp trường cát bùng binh chợ Bến Thành sáng ngày 21 tháng 6 năm 1965.
Chánh thẩm xử án là đại tá Phan Đình Thứ (tức Lam Sơn), linh mục tuyên úy Công giáo tên Thông, nhà sư tuyên úy Phật giáo là đại đức Sĩ. Quân Trấn Trưởng là đại tá Giám.
Nguyễn Văn Trỗi bị bắt ngày 9 tháng 5 năm 1964, trong lúc đặt bom ở gầm cầu Công Lý, chờ ám sát phái đoàn của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Mc Namara. Y bị toà án Vùng 3 Chiến Thuật xử tử hình. Trước toà, y khóc lóc, chửi bọn xúi y đi ôm bom là bọn ” chó đẻ “, và xin toà tha tội. Khi toà tuyên án tử hình, y hô to Hồ Chí Minh muôn năm. Hô xong y lại khóc và xin toà tha.
Năm 1993, tôi (luật sư Nguyễn Văn Chức) có đọc cuốn ” Chung Một Bóng Cờ ” do nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia (Hà Nội) ấn hành, gồm những bài viết của Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Văn Đồng… Cuốn sách đã dành một trang để nói về cái chết của Anh Hùng Trần Văn Đang. Xin trích một vài dòng cuối: ” Sáng ngày 21 tháng 6 năm 1965 lúc 5 giờ 52 phút, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đem anh ra xử bắn tại pháp trường cát, với hy vọng có thể khủng bố được tinh thần nhân dân Sài Gòn. Nhưng chúng đã lầm. Trước đông đảo đồng bào và phóng viên trong và ngoài nước đang tụ tập dọc đường Hàm Nghi và chợ Bến Thành, vừa bước xuống xe, Trần Văn Đang dõng dạc nói lớn: Hỡi đồng bào chợ Bến Thành, hỡi đồng bào Sài Gòn thân yêu, tôi là Trần Văn Đang đây, chiến sĩ giải phóng, tôi đánh Mỹ để giải phóng dân tộc… Đả đảo đế quốc Mỹ… đả đảo tập đoàn tay sai bán nước. Ngay sau khi súng đã nổ, anh vẫn không ngừng hô to Hồ chủ tịch muôn năm, đả đảo đế quốc Mỹ ” (trích trong Chung Một Bóng Cờ, trang 886-887).